BỎ RƠI VIỆT NAM:-49-THAM NHŨNG TRÀN LAN
BỎ RƠI VIỆT NAM:
49-THAM NHŨNG TRÀN LAN
Nạn tham nhũng tràn lan và khả năng lãnh đạo yếu kém đã dẫn đến sự suy giảm nhanh chóng thành tích của QLVNCH trên chiến trường. Kỷ luật suy sụp và tinh thần xuống đến mức thấp mới. Nạn nghiện rượu và chơi ma túy gia tăng. Trong khi cuộc chiến kéo dài và thương vong cứ gia tăng, binh lính chứng kiến gia đình họ đói khổ, nheo nhóc, trong khi giới chóp bu thường chỉ quan tâm đến lợi ích cá nhân hơn là chiến đấu với kẻ thù, còn quân tiếp tế và vật tư ngày càng cạn kiệt. Theo Tướng Davidson, kết quả là “một sự tê liệt bắt đầu bao trùm QĐVNCH—bắt đầu chấp nhận uể oải rằng cuộc chiến đang dần vuột khỏi tay họ và cuối cùng sẽ thua cuộc”. Tình trạng này rất đáng ngại, vì Bắc Việt đang chuẩn bị tăng áp lực trên chiến trường.Mặc dù có những tín hiệu rõ ràng là Hoa Kỳ sẽ không tham chiến trở lại, Tổng thống Thiệu, vốn đã nhận được nhiều lời hứa từ Nixon, vẫn bám víu niềm tin vào sự can thiệp của Hoa Kỳ sẽ cứu vãn tình hình. Do đó, ông không có bước đi quyết liệt nào để ngăn chặn vòng xoáy đi xuống ngày càng tăng tốc của lực lượng mình. Tướng Davidson, khi viết sau chiến tranh, đã đổ ít nhất một phần lỗi cho Thiệu đã không làm việc với các nhà lãnh đạo quân sự cấp cao của miền Nam: “Bộ Tổng tham mưu, luôn yếu đuối và bị Thiệu khuất phục, không nghiên cứu các lựa chọn nào khác cho tình hình suy thoái này. Sự thụ động và chỉ biết cầu nguyện là công thức của họ.”
Thiệu cũng phải đối phó với sự sụp đổ thực sự của nền kinh tế miền Nam . Miền Nam từ lâu đã phụ thuộc vào viện trợ của Hoa Kỳ và doanh thu tạo ra từ sự hiện diện của một số lượng lớn quân đội Hoa Kỳ đã thúc đẩy nền kinh tế của mình. Giờ đây khi quân đội Mỹ đã rời đi và viện trợ quân sự Mỹ giảm mạnh, nền kinh tế gần như khựng lại, để lại tình trạng thất nghiệp tràn lan. Dân tị nạn chạy vào các thành phố để tránh khỏi vùng giao tranh liên tục đã làm trầm trọng thêm vấn đề kinh tế.
Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) ước tính vào năm 1974 có gần một triệu công nhân, khoảng 20 phần trăm lực lượng lao động dân sự, thất nghiệp. Chi phí sinh hoạt, đã tăng vọt lên 65 phần trăm vào năm 1973, đã tăng thêm 27 phần trăm trong sáu tháng đầu năm 1974. Giá xăng tăng từ 31 lên 105 đồng một lít. Giá mọi thứ khác cũng tăng vọt: gạo tăng 100 phần trăm; đường tăng 107 phần trăm; dầu ăn tăng 139 phần trăm; và dầu hỏa tăng 112 phần trăm. Đồng thời, thu nhập bình quân đầu người giảm 25 phần trăm. Ở nông thôn, lao động thiếu hụt, và mặc dù thu hoạch lúa kỷ lục vào năm 1973, sản xuất nông nghiệp vẫn không đáp ứng được nhu cầu của đất nước. Đến giữa năm 1974, miền Nam đã sa lầy vào một cuộc suy thoái hứa hẹn sẽ tồi tệ hơn theo thời gian. Thiệu đã thực hiện các bước để làm chậm đà suy thoái kinh tế, nhưng tỏ ra không đủ.
Làm trầm trọng thêm tình hình kinh tế tồi tệ là nạn tham nhũng tràn lan, vốn phổ biến trong khu vực công cũng như trong quân đội miền Nam. Buôn lậu tràn lan, và rượu whisky, xà phòng và các hàng hóa không đánh thuế khác tràn ngập vào thị trường chợ đen, khiến chính phủ mất đi nguồn thu rất cần thiết. Việc đầu cơ các mặt hàng như gạo, đường và phân bón đã dẫn đến các vụ bê bối liên quan đến các quan chức chính phủ cấp cao, sĩ quan quân đội cấp cao và thậm chí các tu sĩ Phật giáo và Công giáo. Một câu nói của Sài Gòn vào thời điểm đó là, “Ngôi nhà bị mục ruỗng từ mái xuống”, và nhiều người miền Nam cho rằng Tổng thống Thiệu trực tiếp chịu trách nhiệm về nạn tham nhũng tràn lan đã thấm nhuần vào cuộc sống hàng ngày. Họ không nói sai, vì có rất nhiều bằng chứng cho thấy thậm chí Thiệu đã dung túng hoặc trực tiếp hưởng lợi từ nạn tham nhũng lan tràn. Một số cố vấn và bạn bè thân thiết nhất của Thiệu, chẳng hạn như Tướng Đặng Văn Quang, trợ lý đặc biệt về quân sự và an ninh, nằm trong số những tên tham ô nhất ở miền Nam.
Tham nhũng tràn lan đã gây ra tác động tàn phá đối với xã hội miền Nam. Sau chiến tranh, cựu trung tướng QLVNCH Lâm Quang Thi đã mô tả tình hình như sau:
Tham nhũng luôn gây ra bất công xã hội. Ở Việt Nam, một đất nước đang có chiến tranh, bất công xã hội dường như rõ ràng hơn bất kỳ quốc gia nào khác. Tham nhũng đã tạo ra một nhóm tinh hoa nhỏ nắm giữ mọi quyền lực và của cải, trong khi cái gọi là “tầng lớp trung lưu” chủ yếu bao gồm sĩ quan quân đội và công chức ngày càng nghèo đi khi gia nhập hàng ngũ nông dân, công nhân và quân đội. Những tầng lớp xã hội thấp hơn là những người gánh vác gánh nặng của chiến tranh và hy sinh tất cả. Chính những người nông dân đã đóng thuế cho chính phủ, hối lộ cảnh sát, mua phân bón với giá cắt cổ và bán gạo với giá do chính phủ ấn định. Chính những người này đã gửi con trai của họ đi chiến đấu và hy sinh vì đất nước trong khi các quan chức chính phủ và những người giàu có gửi con trai của họ ra nước ngoài. . . . Chính phủ tuyên bố sẽ giành được trái tim và khối óc của người dân, nhưng tất cả những gì họ làm được là tạo ra khoảng cách ngày càng lớn giữa giới lãnh đạo và quần chúng.
Tham nhũng và cuộc khủng hoảng kinh tế ngày càng lún sâu đã có sức tàn phá đến tinh thần và đạo lý của người dân miền Nam, vốn đã xuống thấp do tình trạng đổ máu liên tục của cục diện “không chiến tranh, không hòa bình” đã diễn ra kể từ khi các hiệp định hòa bình được ký kết. Bây giờ, đối mặt với áp lực quân sự mới từ Bắc Việt và gồng mình dưới thảm họa kinh tế, người dân miền Nam ngày càng cảm thấy mình bị bỏ rơi không chỉ bởi Hoa Kỳ, mà còn bởi chính phủ của họ. Theo Tướng Davidson, “Năm 1974, đối với họ cuộc chiến đã kết thúc; họ cảm nhận được giờ cáo chung VNCH đã điểm và ngay cả khi không có cuộc tấn công của kẻ thù, chế độ Thiệu cũng đang trên bờ vực sụp đổ.” Nguyễn Bá Cẩn, thủ tướng cuối cùng của VNCH, đồng ý với đánh giá này, sau đó nói rằng “cuộc chiến đã kéo dài quá lâu, quá tốn kém và đã đưa ra quá ít triển vọng chấm dứt thuận lợi.” Hậu quả, theo sĩ quan tình báo Stuart Herrington của DAO, là “sự xói mòn niềm tin của người dân vào chiến thắng cuối cùng. Người dân ngày càng cảm thấy mình như đang ngồi trên một quả bom hẹn giờ, và Bắc Việt đang thêm những thanh thuốc nổ mới vào quả bom đó mỗi ngày.”
Nhận xét
Đăng nhận xét