BỎ RƠI VIỆT NAM:-48-VNCH YẾU DẦN SAU KHI MỸ RÚT ĐI

 
BỎ RƠI VIỆT NAM:
48-VNCH YẾU DẦN SAU KHI MỸ RÚT ĐI

Mặc dù cuối cùng giới lãnh đạo QLVNCH đã thiết lập các biện pháp kiểm soát chi tiêu để tiết kiệm nhiên liệu, đạn dược và vật tư, nhưng binh lính miền Nam vẫn cứ quen chiến đấu theo cách họ đã được dạy. Không có thay đổi nào về chiến thuật cơ bản và các khái niệm tác chiến dựa vào một lượng lớn pháo binh và không quân, các biện pháp kiểm soát mới đã không hiệu quả. Quân đội miền Nam bắt đầu thiếu hụt nhiên liệu và đạn dược mà họ có trong tay; đến đầu năm 1974, tuyến tiếp tế đã cạn kiệt và “hệ thống dự trữ không bao giờ phục hồi được”. Họ gần như đã cạn kiệt mọi thứ mà họ đã quen có thừa mứa khi Hoa Kỳ còn ở bên.
 
Tình trạng khan hiếm đó đã nhanh chóng làm suy yếu sức mạnh chiến đấu của miền Nam và có tác động bất lợi đến ý chí tiếp tục chiến đấu của họ. Đến giữa năm 1974, nguồn cung cấp đạn dược đã cạn kiệt, đặt ra những hạn chế nghiêm trọng đối với các hoạt động chiến đấu. Ví dụ, các khẩu đội pháo binh ở Cao nguyên Trung phần, vốn trước đó bắn 100 quả đạn mỗi ngày, đã giảm xuống chỉ còn 4 quả mỗi ngày. Đến mùa hè, mỗi binh lính VNCH chỉ được phép sử dụng 85 viên đạn mỗi tháng. Lựu đạn cầm tay và các loại đạn thiết yếu khác cũng cắt giảm sâu. Ngay cả thông tin liên lạc cũng bị ảnh hưởng vì pin vô tuyến bị thiếu hụt
 
Việc thiếu nhiên liệu là một vấn đề nghiêm trọng ảnh hưởng đến cả sức mạnh chiến đấu và khả năng cơ động. Những hạn chế trong việc phân bổ nhiên liệu chỉ cho phép 55 phần trăm phương tiện của miền Nam—xe tải, xe tăng, xe bọc thép chở quân, tàu tuần tra trên sông, trực thăng, máy bay—hoạt động, và những phương tiện có thể hoạt động thì mức hoạt động cũng giảm đáng kể. Khoảng một nửa đội xe tải của QĐVNCH đã bị bỏ không vì thiếu nhiên liệu và phụ tùng. Một sĩ quan cấp tướng ở Quân đoàn I lưu ý rằng “các đơn vị cứu thương thiếu xăng đến mức để di tản những  thương binh, họ phải kéo bốn xe cứu thương liên tiếp bằng một chiếc xe tải 2 1/2 tấn.”
 
Tại Đồng bằng sông Cửu Long, Hải quân VN buộc phải vô hiệu hóa một nửa số đơn vị của mình vì không thể duy trì hoặc tiếp nhiên liệu cho tất cả các tàu thuyền trên sông. Không lực VNCH bị ảnh hưởng đặc biệt nghiêm trọng: do thiếu nhiên liệu và thiếu phụ tùng thay thế, khả năng cơ động chiến lược thông qua việc sử dụng trực thăng và máy bay chở hàng đã giảm từ 50 đến 70 phần trăm.
 
Vào giữa năm 1974, Tướng Phạm Quốc Thuần, tư lệnh Quân đoàn III của QLVNCH, đã mô tả một cách khéo léo về những tác hại của tình trạng thiếu hụt:
 
Trong quý cuối năm 1973 . . . nguồn cung cấp nhiên liệu và đạn dược giảm 30% so với quý đầu tiên, hoặc giảm  60% nếu so với cùng kỳ năm trước. Nguồn cung tiếp tục giảm 30% trong quý đầu tiên năm 1974, và giảm thêm 20% nữa trong quý tiếp theo. . . .  Vào đầu năm 1973, Quân đoàn III được phân bổ 200 phi vụ không kích chiến thuật mỗi ngày; đến cuối năm 1973, chỉ có 80 phi vụ được thực hiện, và trong nửa đầu năm 1974, số lượng phi vụ được phân bổ dao động trong khoảng từ 30 đến tối đa là 60. Việc giảm mạnh các phi vụ không quân này không phải do thiếu máy bay mà là do thiếu nhiên liệu, bom và đạn dược.
 
Đối với một lực lượng đã được dạy cách sử dụng hỏa lực lớn và được lệnh “giữ vững mọi nơi”, tình hình trở nên rất nghiêm trọng. Theo Đại tá Le Gro, thành công của lực lượng vũ trang miền Nam trong năm 1973 sỡ dĩ có thể phần lớn là do khả năng di chuyển nhanh chóng để tăng cường đến các vị trí bị đe dọa hoặc tấn công các khu vực tập trung quân Bắc Việt, nhưng khả năng cơ động đó “gần như biến mất do nguồn tài trợ cho các yêu cầu bảo dưỡng giảm và chi phí tăng vọt của tất cả các nguồn cung cấp, đặc biệt là nhiên liệu”.
 
Ngoài tình trạng thiếu hụt vật tư, miền Nam bắt đầu trải qua tình trạng thiếu hụt nhân sự. Việc duy trì QLVNCH ở mức quân số 1,1 triệu người có vũ trang ngày càng trở nên khó khăn đối với Sài Gòn. Theo Tướng Cao Văn Viên, cựu Tổng tham mưu trưởng Liên quân, để khắc phục tình trạng hao hụt do tổn thất chiến đấu, tử vong thông thường, đào ngũ và giải ngũ, lực lượng này cần một quân số thay thế hàng năm từ 200.000 đến 240.000 người; tuy nhiên, quân dự bị chỉ có khoảng từ 100.000 đến 150.000 người, dẫn đến tình trạng thiếu hụt thường xuyên từ 90.000 đến 100.000 binh sĩ.
 
Do đó, nhiều đơn vị bị thiếu quân, đặc biệt là trong các lực lượng chiến đấu đang gánh chịu phần lớn mũi dùi của trận chiến.  Một nghiên cứu của DAO về Quân khu II vào đầu năm 1974 cho thấy chỉ có 65 phần trăm nhân lực của QLVNCH có mặt để làm nhiệm vụ.
 
Không có gì ngạc nhiên khi tình trạng thiếu hụt nhân lực, cùng với tình trạng thiếu hụt thiết bị và vật tư, đã có tác động tàn phá đến tinh thần của quân lính. Số lượng tân binh thay thế đến các đơn vị chiến đấu ít hơn; nguồn cung cấp đạn dược giảm dẫn đến nhiều thương vong hơn; và tình trạng thiếu trực thăng hoạt động đã làm chậm trễ việc sơ tán kịp thời các thương binh. Khi đến bệnh viện, những binh sĩ bị thương phải đối mặt với tình trạng thiếu thuốc men, thuốc kháng sinh và băng gạc (trong nhiều trường hợp phải giặt và sử dụng lại). Ý chí chiến đấu của người lính miền Nam bắt đầu dao động trong những điều kiện này là điều dễ hiểu.
 
Sài Gòn, đối mặt với tình trạng thiếu hụt tiền bạc và nguồn lực ngày càng tăng, đã phải cắt giảm phụ cấp lương của binh lính, điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến tinh thần quân đội miền Nam và gia đình  họ. DAO đã tiến hành một cuộc khảo sát vào năm 1974 nhằm xác định tác động của những đợt cắt giảm này đối với điều kiện kinh tế của những người lính miền Nam. Báo cáo cuối cùng, do Tony Lawson, giám đốc Nghiên cứu đặc biệt của DAO, kết luận rằng “quân nhân miền Nam buộc phải sống dưới mức sinh hoạt hợp lý và hiệu suất cũng như mức độ hoàn thành nhiệm vụ bị ảnh hưởng nghiêm trọng… tình hình này đã làm xói mòn sức chiến đấu không thể được phép tiếp tục, nếu quân đội miền Nam muốn được coi là một lực lượng khả thi.” Một sĩ quan TQLC  miền Nam đã chứng minh Lawson đánh giá đúng khi, trả lời một cuộc khảo sát do Tập đoàn Rand thực hiện cho Bộ Quốc phòng, đã nói một cách cay đắng: “Đúng vậy, anh là một người lính, anh là một tiểu đội trưởng với binh sĩ của mình, và anh nhận được lệnh bảo vệ một ngọn đồi cho đến chết. Anh không thể bảo vệ cho đến chết, khi mà mỗi tuần anh đều nghe gia đình mình than thở họ không có đủ thức ăn để ăn. Và trong khi anh nhìn vào Sài Gòn, những kẻ giàu có thừa mứa thức ăn, rượu thịt, họ có tiền, họ thoải mái, có thời gian vui chơi. Tại sao anh phải chiến đấu đến chết? Vì ai?”
 
Sài Gòn đã làm rất ít hoặc không làm gì để khắc phục tình hình. Kết quả là tình trạng đào ngũ tăng mạnh. Chẳng mấy chốc, 15.000 đến 20.000 binh lính miền Nam đã bỏ trốn khỏi đơn vị mỗi tháng.  Tệ hơn nữa, nhiều người ở lại với đơn vị của họ đã đút lót với chỉ huy của mình để được phân công làm những việc khác thay vì tác chiến. Bọn lính này được gọi là lính kiểng và thường phải trả tiền cho chỉ huy để được đặc ân rời khỏi đơn vị, làm giảm thêm sức mạnh chiến đấu của tổ chức.
 
Còn có những người lính khác kiếm thêm tiền bằng cách bán vũ khí, đạn dược, và thiết bị của họ cho kẻ thù. Theo đánh giá của DAO vào tháng 2 năm 1974, “Các chỉ huy trong quân khu I thừa nhận rằng họ không thể dự trữ đủ áo choàng đi mưa, dụng cụ đào hào, bộ dụng cụ cơ khí, v.v., vì những binh lính, có gia đình đang túng quẫn, đã bán những mặt hàng này trên thị trường chợ đen để lấy tiền mua thức ăn.” Một số binh lính miền Nam bắt đầu săn mồi chính đồng bào của mình.  Một phụ nữ nông dân đang làm việc trên cánh đồng lúa gần Căn cứ Không quân Chu Lai do Mỹ xây dựng đã nói với một phóng viên Mỹ rằng, “Họ [quân đội VNCH] cướp bóc chúng tôi mọi lúc. Người dân không thể làm gì vì họ có súng—chúng tôi không thể làm gì ngoài việc kêu khóc.”
 
Các nhà lãnh đạo cấp cao có thể đã vào cuộc để hỗ trợ quân đội của họ và đảm bảo rằng họ không ngược đãi dân làng địa phương, nhưng hầu hết đều không làm gì cả. Nhiều chỉ huy cấp cao có vẻ quan tâm đến sinh kế của chính mình hơn là hoàn cảnh của những người lính. Thay vì kiềm chế tham nhũng, họ thường xuyên tham gia, nâng nó gần như lên thành một hình thức nghệ thuật. Một nghiên cứu năm 1974 do Nguyễn Văn Ngân, một trong những phụ tá thân cận nhất của Tổng thống Thiệu, thực hiện, cáo buộc rằng hơn hai phần ba trong số 60 tướng và đại tá trong QĐVNCH đã tham gia vào một số hình thức hoạt động bất hợp pháp. Một nghiên cứu khác về tình trạng tham nhũng trong quân đội do Cục An ninh Quân đội Việt Nam Cộng hòa tiến hành đã phát hiện ra rằng: “Kể từ khi ngừng bắn, các hoạt động quân sự của lực lượng chúng ta đã trở nên ít tích cực hơn do tinh thần của những người lính suy giảm, những người không muốn chịu đựng gian khổ hoặc quá tự tin vào thỏa thuận ngừng bắn. Một yếu tố đáng chú ý diễn ra bên cạnh tinh thần chiến đấu hăng hái của phần lớn những người lính là tình trạng tham nhũng của một số cấp chỉ huy trốn tránh trách nhiệm, tránh gian khổ và tham gia vào các hoạt động vì lợi ích cá nhân.”
 
Cùng báo cáo này cũng cho biết rằng “cấp chỉ huy cấp dưới, đặc biệt là cấp chỉ huy tiểu đoàn và đại đội,” đã bán vũ khí và thiết bị, biển thủ tiền công quỹ, tống tiền cấp dưới và “dành sự chú ý của họ vào công việc kinh doanh riêng tư.” Một số chỉ huy kiếm tiền bằng cách bỏ túi tiền lương của những người lính “ma” không tồn tại trong danh sách đơn vị.  Một cựu quan sát viên miền Nam đã viết sau chiến tranh rằng việc duy trì “lính ma” trong danh sách đơn vị là một thông lệ phổ biến, đặc biệt là ở Quân khu IV trong cả các tiểu đoàn chính quy và địa phương. Ông đã trích dẫn một báo cáo năm 1974 rằng hầu hết các tiểu đoàn Địa phương quân ở Đồng bằng có quân số chiến đấu thực tế từ 150 đến 250 lính. Tuy nhiên, số lượng lính được báo cáo trong danh sách đơn vị thường là hơn 400. Do đó, các chỉ huy trong các tiểu đoàn này có thể thu thập và bỏ túi tiền lương của khoảng 200 “lính ma”.
 
Những chỉ huy khác kiếm tiền từ “lính kiểng” phải trả tiền để được giao các nhiệm vụ an toàn. Một số sĩ quan khác lại đòi tiền dân làng hoặc chủ doanh nghiệp ở vùng xa để được bảo vệ. Các chỉ huy hải quân ở Đồng bằng Cửu Long đã bán nhiên liệu diesel chạy tàu để kiếm lợi nhuận cá nhân. Thậm chí còn có báo cáo cho rằng một số phi công trực thăng đã ra giá cho việc di tản thương binh khỏi chiến trường. Cựu tướng lĩnh và bộ trưởng quốc phòng VNCH Trần Văn Đôn sau này đã nói rằng “hầu như tất cả những ai có khả năng đều lợi dụng chức vụ của mình và tham gia vào việc trục lợi.”
 

Nhận xét

Bài đăng phổ biến