BỎ RƠI VIỆT NAM:
45-ĐÔI BÊN NỖ LỰC CHIẾM ĐẤT
Khi lệnh ngừng bắn bắt đầu vào ngày 27 tháng 1, QĐNDVN ước tính có
170.000 bộ đội chiến đấu bên trong biên giới miền Nam và khoảng 100.000 quân chính quy ở Lào và
Campuchia (xem bảng 10 để biết tóm tắt về lực lượng Cộng sản ở miền Nam ). Mặc
dù miền Nam kiểm soát hầu hết các khu vực
đông dân cư của miền Nam, quân BV kiểm soát phần cực bắc và tây bắc của Quân
khu I, phía nam Khu phi quân sự và dọc theo biên giới Lào, phần tây bắc của Tỉnh
Kontum ở Tây Nguyên (Quân khu II), và hầu hết Tỉnh Phước Long và phía bắc Tỉnh
Bình Long ở Quân khu III dọc theo biên giới Campuchia. Họ cũng kiểm soát các “đốm
da báo” mà họ đã chiếm được trong cuộc chiếm đất trước đó vào tháng 10 năm
1972. Những khu vực do Cộng sản kiểm soát này, như tướng VNCH Nguyễn Duy Hinh
mô tả, “đúng là những lưỡi dao đâm vào sườn quốc gia.”Bắc Việt đã phớt lờ hiệp định hòa bình ngay cả trước khi nó có hiệu lực.
Cũng giống như những gì họ đã làm vào tháng 10, họ ra sức lấn chiếm càng nhiều
lãnh thổ càng tốt trước khi cuộc giao tranh buộc dừng lại theo đúng lịch. Trong
48 giờ trước khi ngừng bắn, quân miền Bắc đã tấn công hơn 400 thôn làng. Giao
tranh diễn ra ác liệt, và các máy bay của Không quân và Hải quân Hoa Kỳ đã thực
hiện 900 phi vụ ném bom và 50 cuộc không kích B-52 để hỗ trợ cho các lực lượng
miền Nam trong thời gian này.
Ngay cả khi Bắc Việt cố gắng mở rộng quyền kiểm soát của họ đối với lãnh
thổ miền Nam , họ nhận ra rằng họ cần phải xây dựng lại và tăng cường quân đội
của họ ở miền Nam nếu họ muốn giữ gìn lãnh thổ đã chiếm. Theo lệnh ngừng bắn, Bắc
Việt bắt đầu đưa quân vào phía nam dọc theo Đường mòn Hồ Chí Minh. Mặc dù họ đã
đồng ý rút khỏi Lào và ngừng sử dụng Lào và Campuchia làm hành lang xâm nhập,
các nhà lãnh đạo Hà Nội vẫn tiếp tục di chuyển quân thay thế và tiếp tế xuống
đường mòn để tân trang các đơn vị của họ ở miền Nam, vi phạm trực tiếp các hiệp
định hòa bình. Theo Tướng Nguyễn Duy Hinh, Bắc Việt “bắt đầu một chương trình
phát triển lực lượng chưa từng có hoặc có thể sẽ không bao giờ có trong toàn bộ
lịch sử Chiến tranh Đông Dương”.
Việc tăng cường như vậy là cần thiết vì lực lượng QĐNDVN ở miền Nam
đang trong tình trạng kiệt sức hoàn toàn. Chiến dịch Nguyễn Huệ đã rất
tiêu hao: toàn bộ các đơn vị đã bị xóa sổ;
một tỷ lệ lớn xe bọc thép và pháo hạng nặng đã bị phá hủy trong cuộc
giao tranh; và các kho hàng hậu cần đã bị hủy diệt và đạn dược đã cạn kiệt. Đại
tá Trần Văn Trà, chỉ huy mặt trận B-2 của Trung ương cục miền Nam, một khu vực
bao gồm toàn bộ miền Nam ở phía nam Tây
Nguyên, sau này viết rằng “vào năm 1973, cán bộ và binh lính của chúng tôi đã mệt
mỏi, chúng tôi không có thời gian để bù đắp tổn thất, tất cả các đơn vị đều rối
loạn, thiếu nhân lực, thiếu lương thực và đạn dược . . . ” Để khắc phục tình trạng
này trong khi vẫn giữ được vị trí của mình ở miền Nam, Bắc Việt đã phải khởi xướng
một chương trình tiếp tế lớn, mà có thể thực hiện được nhờ sự viện trợ tăng cường
từ Trung Quốc và Liên Xô.
Theo nguồn tin tình báo, Bắc Việt đã nhận được tổng cộng 2,8 triệu tấn
hàng hóa từ các nước khối Cộng sản vào năm 1973, tăng 50 phần trăm so với số liệu
viện trợ năm 1972; vào năm 1974, tổng số đã tăng lên 3,5 triệu tấn.
Để phân phối số lượng lớn thiết bị và vật tư này, Bắc Việt đã lập ra một
chương trình cải tạo để biến Đường mòn Hồ Chí Minh thành một mạng lưới đường đá
dăm rộng, cầu bê tông, đường ống và các chương trình thoát nước cố định để hỗ
trợ việc xây dựng lực lượng của họ ở miền Nam. Không có mối đe dọa từ các cuộc
không kích của Hoa Kỳ, QĐNDVN có thể thực hiện những cải tạo này rất nhanh
chóng, tới tấp tăng cường sự xâm nhập của người và thiết bị vào miền Nam. Trong
những tháng đầu năm 1973, các máy bay quan sát của Không quân Việt Nam liên tục
báo cáo nhìn thấy đoàn xe gồm 200–300 chiếc, bao gồm xe tăng, xe tải và pháo hạng
nặng, đi xuống đường mòn; toàn bộ các đơn vị dường như đang di chuyển về phía
nam. Đáng ngại hơn, các nguồn tin tình báo cho biết Bắc Việt đang tăng cường
đáng kể khả năng phòng không của họ ở miền Nam. Điều này không báo hiệu điều tốt
lành cho miền Nam, những người đã được các cố vấn Mỹ dạy phải dựa nhiều vào sự
hỗ trợ không quân chiến thuật.
Bất chấp sự gia tăng lực lượng của Cộng sản ở miền Nam, QLVNCH, với hơn một
triệu người vũ trang, có vẻ hùng mạnh hơn ở miền Nam so với quân BV và Việt Cộng cộng lại khi lệnh
ngừng bắn bắt đầu (xem bảng 11). Ngoài ra, miền Nam vừa nhận được một lượng lớn vũ khí, thiết bị
và vật tư theo chương trình Tăng cường và Tăng cường Hơn. Thoạt nhìn, QLVNCH có vẻ đủ khả năng đối phó
với lực lượng Bắc Việt và Việt Cộng ở miền Nam. Tuy nhiên, để so sánh chính xác
sức mạnh tương đối thì phải cần nhiều hơn là chỉ căn cứ vào số lượng và tỷ lệ lực
lượng quân miền Nam phải chịu tổn thất trong cuộc tấn công của BV năm 1972 và
đang cố gắng phục hồi sau những chấn thương của một năm đầy biến cố đó. Nhiều vấn
đề đã gây khó khăn cho quân đội miền Nam
trong nhiều năm, chẳng hạn như lãnh đạo kém và tỷ lệ đào ngũ cao, vẫn
chưa được giải quyết. Một đánh giá của Văn phòng Tùy viên Quốc phòng Hoa Kỳ tại
Sài Gòn vào tháng 7 năm 1973 đã ghi nhận tình trạng tham nhũng dai dẳng, tinh
thần sa sút và tình trạng thiếu hụt liên tục các nhà lãnh đạo cấp trung và quản
lý nguồn lực hậu cần.
Bản thân các con số đã gây hiểu lầm. Chỉ có khoảng 200.000 trong số
450.000 quân chính quy của QĐVNCH thuộc các sư đoàn bộ binh và các đơn vị chiến
đấu khác; phần còn lại được tìm thấy trong “cái đuôi” hành chính và hậu cần khổng
lồ cần thiết để hỗ trợ cho các lực lượng chiến đấu. Các vấn đề của Sài Gòn càng
trở nên phức tạp hơn do Thiệu yêu cầu phải giữ vẹn toàn bộ lãnh thổ. Sắc lệnh của ông đảm bảo tiếp tục bản chất
tĩnh tại của lực lượng miền Nam, trong đó họ bị ràng buộc với việc bảo vệ hầu
như mọi tấc đất lãnh thổ, do đó hạn chế khả năng cơ động và đặt họ hoàn toàn
vào thế phòng thủ; do đó, họ nhường thế tiến công cho lực lượng Cộng sản và để
cho địch đặt ra các điều khoản cho các trận chiến sắp tới.
Nhận xét
Đăng nhận xét