BỎ RƠI VIỆT NAM:
55-BẮC VIỆT ĐÁNH GIÁ LẠI CHIẾN LƯỢC
Với sự sụp đổ của Nixon, hoàn cảnh thuận lợi đã hội tụ cho giới lãnh đạo
Bắc Việt. Kẻ thù chính của họ ở Washington đã bị buộc từ chức, và lực lượng miền
Nam hiện đã bị kéo căng đến điểm giới hạn. Các “cuộc đột kích chiến lược” vào đầu
năm 1974 và cuộc tấn công mùa hè sau đó đã vượt xa mong đợi của miền Bắc. Ngoài
ra, QLVNCH đã bộc lộ những dấu hiệu rõ ràng là họ đang bắt đầu tan rã như một lực
lượng chiến đấu có sức thuyết phục; các điệp viên tình báo Bắc Việt đã ước tính
chính xác rằng tình trạng thiếu hụt đạn dược đã làm giảm 60% hỏa lực của miền
Nam và tình trạng thiếu hụt nhiên liệu và phụ tùng thay thế đã làm giảm 50% khả
năng cơ động của QĐVNCH. Với những ước tính này, Bắc Việt, theo Tướng Văn Tiến
Dũng, “đặc biệt chú ý” đến trận chiến tại thị trấn Thượng Đức ở tỉnh Quảng Nam
như một thước đo thực sự về tình trạng của quân địch. Thượng Đức là tiền đồn cực tây của QLVNCH
trên vành đai phòng thủ bên ngoài bảo vệ thành phố quan trọng Đà Nẵng, chỉ cách
đó 40 km. Bắc Việt đã tấn công vào ngày 29 tháng 7 năm 1974 và đến ngày 7 tháng
8, họ đã chiếm được thủ phủ của quận, giết chết và bắt giữ 1.600 quân đồn trú của
miền Nam trong quá trình này. Sau này, Dũng đã viết về trận chiến: “Đây là một
cuộc thử nghiệm sức mạnh với những gì được cho là quân đội được huấn luyện tốt
nhất của kẻ thù. Khi chúng tôi đánh bật
Thượng Đức, địch đã điều cả một sư đoàn lính dù trong nhiều ngày phản công liên
tục để chiếm lại. Nhưng chúng tôi đã gây thương vong nặng nề cho chúng, giữ Thượng
Đức và buộc địch phải đầu hàng.”
Sau khi quan sát diễn biến tại Thượng Đức và các mục tiêu dễ dàng giành
được ở Tây Nguyên, Dũng và Bộ Tổng tham mưu đã báo cáo với Ban Quân ủy Trung
ương rằng “khả năng chiến đấu của lực lượng chủ lực cơ động của chúng ta bây giờ
hoàn toàn vượt trội so với lực lượng chính quy cơ động của địch. . . rằng cuộc
chiến đã đi đến giai đoạn cuối. Cán cân lực lượng đã thay đổi. Chúng ta đã trở
nên mạnh hơn, trong khi địch đang suy yếu.” Đánh giá của họ, cùng với việc
Nixon từ chức, việc cắt giảm tài trợ và cuộc khủng hoảng chính trị gia tăng ở
Sài Gòn, đã thuyết phục nhiều người trong giới lãnh đạo quân sự và dân sự Bắc
Việt rằng cần thay đổi mộ chiến lược phù hợp.
Vào tháng 10 năm 1974, Quân ủy Trung ương và Bộ Chính trị họp hội nghị tại
Hà Nội để xem xét đánh giá và khuyến nghị của Bộ Tổng tham mưu. Theo Dũng, các
thành viên hội nghị đã nhất trí về những điều sau:
1-Ngụy quân ngày càng suy yếu về quân sự, chính trị và kinh tế và lực lượng
của chúng ta mạnh hơn nhiều so với kẻ thù ở miền Nam.
2-Hoa Kỳ đang phải đối mặt với những khó khăn ngày càng tăng cả trong nước
và trên thế giới, và khả năng hỗ trợ cho quân ngụy đang giảm dần.
3-Chúng ta đã tạo ra một chuỗi hỗ trợ lẫn nhau, đã tăng cường lực lượng dự
bị và vật chất và đang không ngừng cải thiện hệ thống chiến lược và chính trị của
chúng ta.
4-Phong trào đòi hòa bình, cải thiện đời sống nhân dân, dân chủ, độc lập
dân tộc và lật đổ Thiệu ở nhiều thành phố đang phát triển mạnh mẽ.
Mặc dù những thành viên tham dự hội nghị đồng ý rằng khả năng Hoa Kỳ hỗ
trợ chế độ Thiệu đang giảm dần, nhưng họ không tin rằng người Mỹ sẽ không phản ứng
theo một cách nào đó. Do đó, câu hỏi chính, theo Dũng, là, “Liệu người Mỹ có khả
năng đưa quân trở lại miền Nam khi các cuộc tấn công lớn của chúng ta dẫn đến
nguy cơ sụp đổ của quân đội Sài Gòn hay không?”
Ý kiến về vấn đề này không đồng thuận, nhưng Lê Duẩn lập luận: “Bây giờ
Hoa Kỳ đã rút khỏi miền Nam, họ sẽ khó có thể quay trở lại. Và bất kể họ có thể
can thiệp như thế nào, họ cũng không thể cứu được chính quyền Sài Gòn khỏi sự sụp
đổ thảm khốc của nó.” Lập luận của ông
đã thuyết phục được các đồng chí của ông, và đến cuối tháng 10, Bộ Chính trị đã
quyết định về chiến lược cho năm 1975 và 1976. Quyết định của Bộ Chính trị, được
gọi là “Nghị quyết năm 1975,” nêu rõ rằng chiến tranh đã đi đến “giai đoạn cuối
cùng”. Bắc Việt sẽ tiến hành một cuộc tấn công gồm hai giai đoạn: năm 1975, họ
sẽ củng cố các thành quả đã đạt được, bảo vệ chặt chẽ hơn “hành lang hậu cần”
và tiếp tục tăng cường lực lượng ở miền Nam; năm 1976, họ sẽ bắt đầu cuộc tổng
tấn công cuối cùng.
Quyết định trì hoãn cuộc tổng tấn công của họ có vẻ kỳ lạ khi xét đến quy
mô tăng cường của Cộng sản vào năm 1973 và đầu năm 1974, nhưng trong các cuộc
thảo luận của Bộ Chính trị, Lê Đức Thọ, người lúc này là nhân vật có quyền lực
thứ hai ở miền Bắc Việt chỉ sau Lê Duẩn, đã nói: “Kho dự trữ vật chất của chúng
ta vẫn còn rất thiếu thốn, đặc biệt là về vũ khí và đạn dược. . . . Do đó,
chúng ta phải hạn chế giao tranh vào năm 1975 để dành sức cho năm 1976, khi đó
chúng ta sẽ tiến hành các cuộc tấn công quy mô lớn. . . .” Chiến lược này chắc
chắn là bảo thủ, nhưng Hà Nội có lý do để chơi nước cờ an toàn; trước đây họ đã thử hai lần phát động các cuộc
tổng tấn công (năm 1968 và 1972), và cả hai lần đều chứng tỏ là quá sớm và cực
kỳ tốn kém về thương vong. Ngoài ra, Bộ Tổng tham mưu Bắc Việt đã đánh giá quá
cao năng lực của QLVNCH, vốn đã chiến đấu khá tốt trong suốt mùa hè và kéo dài
đến mùa thu. Mặc dù có nhiều bằng chứng cho thấy lực lượng miền Nam đang gặp
khó khăn, nhưng giới lãnh đạo Bắc Việt (vẫn không biết tinh thần của miền Nam
đã suy giảm nghiêm trọng như thế nào trong năm trước) vẫn còn tin rằng QLVNCH,
ít nhất là về mặt kỹ thuật, vẫn nắm giữ ưu thế về sức mạnh tổng thể. Do đó, họ
không đủ tự tin để phát động chiến dịch “cuối cùng” mà không có sự chuẩn bị
thêm.
Các chỉ huy chiến trường chính và các nhà lãnh đạo chính trị đã được triệu
tập đến Hà Nội vào tháng 11 để thảo luận về cách thức triển khai chiến lược mới.
Những cuộc tranh cãi nảy lửa đã nổ ra về việc tấn công ở đâu và như thế
nào. Quân miền Nam được cho là quá mạnh ở
khu vực Quân đoàn I, phía nam DMZ, và cũng được cho là không thua sút đối với
Quân đoàn III (khu vực bao quanh Sài Gòn). Khu vực Quân đoàn IV ở Đồng bằng
sông Cửu Long quá xa so với các tuyến tiếp tế của Cộng sản. Do đó, một số thành
viên của ủy ban đã lập luận cho một cuộc tấn công ở Tây Nguyên (Quân đoàn II).
Tuy nhiên, Trung Tướng Trần Văn Trà, chỉ huy Mặt trận B-2, đã đề xuất rằng lực
lượng của ông sẽ tiến hành một cuộc tấn công thực tế sẽ là một cuộc tấn công
“thử nghiệm” ở Tỉnh Phước Long, trên biên giới của Quân đoàn II và Quân đoàn
III, để xem Quân đoàn VNCH sẽ chiến đấu tốt như thế nào và liệu Hoa Kỳ có phản ứng
hay không. Ông lập luận rằng vì mục tiêu nằm rất gần Hành lang Trường Sơn, nên
cuộc tấn công có thể được hỗ trợ dễ dàng. Ông đã trình bày các kế hoạch chi tiết
mà ông đã mang theo. Sau nhiều cuộc thảo luận và sửa đổi kế hoạch, ủy ban đã chấp
thuận cuộc tấn công vào Phước Long, sẽ bắt đầu vào giữa tháng 12. Một số người trong Bộ Chính trị không đồng
tình với kế hoạch của Trà vì họ cảm thấy nó có khả năng làm cạn kiệt quân số, đạn
dược và thiết bị có thể được sử dụng tốt hơn trong cuộc tổng tấn công năm 1976.
Tuy nhiên, Lê Duẩn đã bị thuyết phục bởi lập luận của Trà và chấp thuận cuộc tấn
công. Tuy nhiên, ông đã cảnh báo Trà rằng thất bại sẽ không được chấp nhận, nói
với ông ta, “Tiến lên và tấn công. . . . Nhưng ông phải chắc chắn về thắng lợi.”
Theo quan điểm của Bắc Việt, quyết định tấn công Phước Long là đúng đắn.
Một cuộc tấn công thành công sẽ bảo vệ được đoạn đường còn lại cuối cùng của
Hành lang Trường Sơn và tạo điều kiện dễ dàng tiếp cận các vị trí sẽ thống trị
các lối tiếp cận Sài Gòn. Cuộc tấn công cũng sẽ trói buộc lực lượng miền Nam,
không để lại bất kỳ lực lượng dự bị nào có thể tấn công vào nỗ lực tiếp tế và yểm
trợ của Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Trong khi đó, quá trình chuẩn bị cho một cuộc tổng tấn công năm 1976 có
thể tiếp tục không bị gián đoạn. Ngoài
ra, một cuộc tấn công mạnh mẽ gần Sài Gòn chắc chắn sẽ gây ra những hậu quả về
mặt tâm lý cho người dân thủ đô. Nếu lực lượng BV chiếm được Phước Bình (thủ phủ
của tỉnh), lực lượng của Thiệu không thể duy trì chính sách giữ vững mọi miền
lãnh thổ của mình nữa, điều này sẽ làm xói mòn thêm sự ủng hộ của người dân vốn
đã suy yếu. Cuộc tấn công vào Phước Long mang lại tiềm năng đạt được lợi ích lớn
với rủi ro tương đối thấp.
Vào ngày 13 tháng 12 năm 1974, Bắc Việt đã phát động cuộc tấn công của họ.
Cuộc tấn công sẽ kéo dài đến năm mới, và mặc dù tình hình lúc đó chưa rõ ràng,
trận chiến Phước Long đã đánh dấu sự khởi đầu cho sự cáo chung của Việt Nam Cộng
hòa.
Nhận xét
Đăng nhận xét