BỎ RƠI VIỆT NAM:-44-MỸ RÚT QUÂN.

 
BỎ RƠI VIỆT NAM:
44-MỸ RÚT QUÂN

Lệnh ngừng bắn có hiệu lực vào lúc 8 giờ sáng Chủ Nhật theo giờ Sài Gòn vào ngày 28 tháng 1 (nửa đêm, Giờ chuẩn Greenwich, ngày 27 tháng 1 năm 1973). Tại Trụ sở MACV, Thiếu tá Jere K. Forbus, sĩ quan báo cáo, đã thông báo với các phóng viên đang tập trung, “Tất cả các hoạt động quân sự tấn công của lực lượng Hoa Kỳ tại Việt Nam Cộng hòa đã dừng lại lúc 08 giờ sáng nay.”  Chiến tranh đã kết thúc đối với Hoa Kỳ. Trung tá William B. Nolde, cố vấn cấp cao cho tỉnh trưởng Bình Long tại An Lộc, đã bị một quả đạn pháo của Bắc Việt giết chết lúc chín giờ đêm trước lệnh ngừng bắn có hiệu lực. Ông là người Mỹ thứ 46.941 tử trận và là thương vong chính thức cuối cùng của Hoa Kỳ trong cuộc chiến.
 
Theo các điều khoản của thỏa thuận ngừng bắn, Hoa Kỳ đồng ý “dừng mọi hoạt động quân sự chống lại lãnh thổ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” và rút quân đội Mỹ còn lại, bao gồm cả cố vấn, khỏi miền Nam  trong vòng 60 ngày. Lực lượng Hoa Kỳ rút khỏi miền Nam  như đã thỏa thuận, với những người lính cuối cùng rời khỏi Sài Gòn vào ngày 29 tháng 3 năm 1973. Ngày hôm đó, 61 tù binh chiến tranh Mỹ cuối cùng được biết là bị Bắc Việt giam giữ đã được thả. Dù tốt hay xấu, Việt Nam hóa đã chính thức kết thúc một lần và mãi mãi; miền Nam  phải tự lo liệu. Sự hiện diện quân sự duy nhất còn lại của Hoa Kỳ tại miền Nam  (ngoài 159 TQLC vẫn ở lại để bảo vệ Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Sài Gòn) là Văn phòng Tùy viên Quốc phòng (DAO) mới thành lập dưới quyền Thiếu tướng John E. Murray.  DAO bao gồm 50 sĩ quan và khoảng 1.200 thường dân Mỹ, nhiều người trong số họ là sĩ quan trung cấp và cao cấp đã nghỉ hưu. Nhiệm vụ của họ là giám sát các hoạt động quân sự của miền Nam  trong khi cung cấp hỗ trợ kỹ thuật trong các lĩnh vực như truyền thông và tình báo, nhưng theo thỏa thuận ngừng bắn, không được đưa ra lời cố vấn về các hoạt động quân sự hoặc chiến thuật. Để hỗ trợ DAO và chuẩn bị các kế hoạch dự phòng cho khả năng tái diễn chiến tranh trên không ở Đông Nam Á nếu Hoa Kỳ quyết định làm như vậy, Nhóm Hoạt động Hỗ trợ của Hoa Kỳ, do Tướng John W. Vogt Jr., Không quân Hoa Kỳ chỉ huy, đã được thành lập tại Nakhon Phanom ở đông bắc Thái Lan.
 
Tướng Frederick Weyand chính thức giải tán Bộ tư lệnh Hỗ trợ Quân sự Hoa Kỳ, Việt Nam, vào ngày 29 tháng 3 năm 1973. Trong đánh giá cuối cùng về tình hình quân sự ở Việt Nam, Weyand thận trọng tuyên bố QLVNCH “có khả năng bảo vệ miền Nam  khỏi bất kỳ cuộc tấn công nào trừ cuộc tấn công được cường quốc lớn hỗ trợ với quy mô lớn”. Ông tin rằng nếu thỏa thuận ngừng bắn được tôn trọng, cuộc xung đột vũ trang sẽ dần dần biến thành một cuộc đấu tranh chính trị.  Tuy nhiên, nếu lệnh ngừng bắn không được hai bên tuân thủ, ông dự đoán rằng “chúng ta sẽ phải đối mặt với quyết định khó khăn về việc Hoa Kỳ tái can thiệp và nghi vấn tất yếu về giá trị của nỗ lực tham chiến trong quá khứ của chúng ta”. Ông lưu ý đến sự gia tăng của Bắc Việt ở miền Nam  và ước tính rằng quân BV sẽ có khả năng phát động một cuộc tấn công lớn vào Quân đoàn I và III trong năm 1974. Weyand tin rằng khả năng của miền Nam  trong việc đối phó với mối đe dọa này phụ thuộc vào kỹ năng của Thiệu trong việc thu hút sự ủng hộ trong nước và quốc tế, giảm tham nhũng nội bộ và cải thiện sự lãnh đạo quân sự, cũng như vào “việc tiếp tục các mức viện trợ quân sự và kinh tế đầy đủ của Hoa Kỳ”.
 
Vào ngày người lính Hoa Kỳ cuối cùng rời khỏi Sài Gòn, Nixon đã lên truyền hình và phát thanh quốc gia và đưa tin rằng “lần đầu tiên sau 12 năm, không có lực lượng quân sự Hoa Kỳ nào ở Việt Nam. Tất cả các tù binh chiến tranh của chúng ta đều đang trên đường trở về nhà.17 triệu người dân miền Nam  có quyền lựa chọn chính phủ của riêng mình mà không có sự can thiệp từ bên ngoài, và nhờ chương trình Việt Nam hóa của chúng ta, họ có sức mạnh để bảo vệ quyền đó. Chúng ta đã ngăn chặn việc áp đặt một chính phủ Cộng sản bằng vũ lực lên miền Nam .”
 
Nixon đã sử dụng Việt Nam hóa và các cuộc đàm phán ở Paris như một phương tiện để đạt được “hòa bình trong danh dự” mà ông đã hứa và đưa Hoa Kỳ ra khỏi miền Nam. Nhiều người trong chính quyền đồng ý với Đại sứ Ellsworth Bunker, người đã tuyên bố trong báo cáo cuối cùng của mình với Nixon rằng “Việt Nam hóa đã thành công.” Sự lạc quan như vậy không phổ biến bên ngoài nhánh hành pháp, đặc biệt là trong số những người làm việc chặt chẽ với quân đội miền Nam . Có lẽ đánh giá tốt nhất về cơ hội của Sài Gòn là của một sĩ quan DAO, anh đã trả lời vào đầu năm 1973 khi được hỏi về triển vọng tương lai của người miền Nam  chống lại Cộng sản, “Chỉ có thời gian mới trả lời được liệu có đủ thời gian hay không.” Thời gian luôn là vấn đề then chốt trong nỗ lực Việt Nam hóa Chiến tranh. Thật không may, với sự ra đi của toàn bộ quân đội Hoa Kỳ, thời gian bắt đầu cạn kiệt đối với miền Nam .


 

Nhận xét

Bài đăng phổ biến