BỎ RƠI VIỆT NAM:-54-NIXON TỪ CHỨC

 
BỎ RƠI VIỆT NAM:
54-NIXON TỪ CHỨC

Đòn tấn công tiếp theo vào miền Nam không phải từ Cộng sản, mà từ đồng minh trung thành nhất của họ. Vào ngày 9 tháng 8 năm 1974, hai ngày sau khi Hạ viện thông qua dự luật viện trợ quân sự, Richard Nixon đã từ chức tổng thống. Thiệu và đồng bào của ông luôn tin tưởng vào lời hứa của Nixon sẽ can thiệp nếu Bắc Việt vi phạm lệnh ngừng bắn có hiệu lực. Bây giờ, giữa cuộc tấn công lớn nhất của Cộng sản kể từ khi có lệnh ngừng bắn, Nixon đã rời bỏ nhiệm sở.  Thiệu đã sững sờ và, theo Nguyễn Tiến Hưng, trong “tình trạng căng thẳng cao độ” và “nhốt mình trong văn phòng”. Tình hình được mô tả rõ nhất bởi Tướng Viên, sau chiến tranh, ông viết: “Là kiến ​​trúc sư chính của Việt Nam hóa và Hiệp định Paris, theo quan điểm của chúng tôi, ông [Tổng thống Nixon] là quan chức Mỹ duy nhất có nghĩa vụ đạo đức phải thực thi lệnh ngừng bắn. Ông cũng là người đàn ông đáng tin cậy duy nhất có đủ can đảm để hành động táo bạo và mạnh mẽ khi cần thiết”. Người đàn ông đã nhiều lần hứa với Thiệu rằng ông sẽ ủng hộ miền Nam giờ không còn là tổng thống nữa. Thiệu đã vui mừng trong một khoảnh khắc vào ngày 10 tháng 8 khi ông nhận được một lá thư từ tổng thống mới, Gerald Ford, cũng lại hứa rằng “những cam kết hiện tại mà quốc gia này đã đưa ra trong quá khứ vẫn còn hiệu lực và sẽ được tôn trọng hoàn toàn trong chính quyền của tôi”. Theo một trong những cố vấn thân cận nhất của tổng thống miền Nam, Thiệu đã nghĩ đến việc nghe theo lời khuyên của Tướng Murray, từng thúc giục ông suy nghĩ về việc rút ngắn các tuyến phòng thủ, tập trung quân đội và đạn dược còn lại, và tập trung vào việc phòng thủ các vùng đất đông dân hơn dọc các khu vực ven biển. Trớ trêu thay, lá thư của Ford đã thuyết phục Thiệu rằng sự giúp đỡ của Mỹ đang trên đường đến, và ông đã gác lại mọi kế hoạch thay đổi chiến lược.
 
Trong những tháng tiếp theo, Ford sẽ tiếp tục trấn an Thiệu, nhưng chẳng mấy chốc rõ ràng là tổng thống mới sẽ không thể thay đổi được quyết định của Quốc hội. Trong cuộc bầu cử mùa thu năm 1974, do hậu quả của vụ bê bối Watergate, Đảng Dân chủ đã giành thêm 43 ghế tại Hạ viện, khiến nắm được 291 ghế so với 144 ghế của Đảng Cộng hòa. Tại Thượng viện, Đảng Dân chủ giành được thêm ba ghế, tổng cộng 61 ghế cho Đảng Dân chủ và 39 ghế cho đảng Cộng hòa. Dân chủ chiếm đa số áp đảo trong cả hai viện sẽ trói tay Tổng thống Ford vào năm 1975 khi Bắc Việt phát động cuộc tấn công cuối cùng của họ.
 
Tóm lại việc Nixon từ chức và cắt giảm viện trợ là hai cú đấm liên tiếp mà miền Nam không bao giờ gượng lại được. Stuart Herrington đã viết: “Chỉ riêng hai thất bại này đã làm xói mòn tinh thần chiến đấu của người Việt Nam, nhưng chúng lại đi kèm với việc địch tăng cường giao chiến, tham nhũng leo thang và tình trạng trì trệ kinh tế ngày càng tồi tệ. Kết quả là một cuộc khủng hoảng tinh thần chưa từng có”.
 
Việc cắt giảm viện trợ và sự ra đi đột ngột của Nixon đã làm suy yếu thêm chính quyền Thiệu và dẫn đến thách thức chính trị nghiêm trọng nhất trong sự nghiệp của ông. Thiệu đã có thể kiềm chế phe bất đồng chính kiến ​​chống lại chính quyền của mình chủ yếu dựa trên mối quan hệ của ông với Nixon và khả năng duy trì sự ủng hộ của Hoa Kỳ.  Khi những điều đó bốc hơi, tình hình chính trị ở Sài Gòn đã tan vỡ. Vào ngày 8 tháng 9, một nhóm giáo dân và lãnh đạo tôn giáo Công giáo do Cha Trần Hữu Thanh, một linh mục chống Cộng kiên quyết, đã ban hành “Bản cáo trạng số 1”, trong đó buộc tội Thiệu che giấu nạn tham nhũng tràn lan đã thấm nhuần vào mọi mặt của đời sống miền Nam. Hơn nữa, bản cáo trạng còn buộc tội Thiệu và các thành viên gia đình ông ta đầu cơ bất hợp pháp, biển thủ công quỹ và buôn bán heroin. Bản cáo trạng kết luận rằng “chế độ gia đình độc tài thối nát hiện tại… là một thảm họa quốc gia và là nỗi nhục quốc gia, một sự phản bội đối với tất cả những người đã hy sinh bản thân cho cuộc đấu tranh gian khổ, kéo dài của nhân dân và quân đội trong hơn một phần tư thế kỷ.”
 
Cuộc tấn công trực tiếp vào Thiệu và tuyên bố của ông ta về quyền lãnh đạo đất nước đã gây ra một phản ứng dây chuyền các cuộc biểu tình khác.  Ba tờ nhật báo của Sài Gòn đã công bố bản cáo trạng, nhưng các ấn bản của họ đã bị quân đội chính phủ và cảnh sát quốc gia tịch thu, điều này chỉ làm bùng lên ngọn lửa phản đối. Một nhóm các nhà lãnh đạo Phật giáo và các nhà lãnh đạo chính trị đã thành lập “Lực lượng Hòa giải Quốc gia” và yêu cầu Thiệu thực hiện Hiệp định Paris. Ngay sau đó, liên tiếp một thời gian ngắn, một “Phong trào chống nạn đói”, một “Phong trào Phụ nữ vì Quyền Sống” và một chiến dịch đòi trả tự do cho các tù nhân chính trị đã xuất hiện và góp phần vào các cuộc biểu tình chống lại Thiệu và chế độ của ông ta.
 
Sự thất vọng của người dân miền Nam cuối cùng đã bùng nổ, tạo ra điều mà một trong những cố vấn của Thiệu mô tả là “một cuộc thập tự chinh chống chính phủ rộng lớn”.
 
Được Đại sứ Martin thúc giục xoa dịu tình hình, lúc đầu Thiệu đã cố gắng lý luận với những người bất đồng chính kiến. Ông thậm chí còn đi xa đến mức sa thải bốn thành viên nội các và sa thải hoặc giáng chức 400 sĩ quan cấp tá trong quân đội. Tuy nhiên, những người biểu tình coi hành động của ông là quá ít và quá muộn. Cha Thanh, thề rằng các cuộc biểu tình sẽ tiếp tục, giải thích: “Những thay đổi về nhân sự không quan trọng. Chúng tôi muốn thay đổi lập trường và chính sách.” Thiệu, đã đưa ra những nhượng bộ đáng kể nhất trong nhiệm kỳ tổng thống kéo dài bảy năm của mình, đã cách chức ba trong số bốn chỉ huy quân khu. Ngay cả điều này cũng không làm hài lòng những người bất đồng chính kiến. Một đại biểu Quốc hội tuyên bố, “Việc sa thải một số nhà kỹ trị sẽ không thay đổi được mọi thứ. Người đứng đầu phải bị thay đổi.”
 
Hàng nghìn người biểu tình một lần nữa lại xuống đường ở Sài Gòn. Thiệu, hiện lực lượng đang bị gây sức ép mạnh trên chiến trường, nên sẵn sàng cho phép thành phần bất đồng chính kiến ​​một chút tự do. Tình hình trở nên tồi tệ hơn đối với miền miền Nam đang bị bao vây khi vào ngày 8 tháng 10 Chính quyền Cách mạng Lâm thời tuyên bố sẽ không đàm phán với chế độ của ông ta nữa.  “Chừng nào Nguyễn Văn Thiệu và đồng bọn còn nắm quyền ở Sài Gòn,” tuyên bố của CQCMLT cho biết, “việc phá hoại hiệp định Paris sẽ còn tiếp diễn, và vẫn không thể đạt được hòa bình và hòa hợp dân tộc”. Do đó, Thiệu phải bị lật đổ và thay thế bằng “một chính quyền mong muốn hòa bình và hòa hợp dân tộc và sẵn sàng thực hiện hiệp định Paris về Việt Nam một cách nghiêm túc.”
 
Thiệu, thề rằng mình sẽ không cho phép đám người biểu tình giao đất nước cho Cộng sản, đã phản công. Khi ông chỉ huy cảnh sát quốc gia và quân đội chính phủ kiểm soát các cuộc biểu tình để bảo vệ trật tự công cộng, các cuộc đụng độ đẫm máu đã nổ ra trên đường phố. Mười một nhà lãnh đạo đối lập đã bị đánh đập và bắt giữ. Hai mươi tám phóng viên cũng bị bắt trong một cuộc đột kích vào Câu lạc bộ Báo chí Việt Nam.  Trong bài phát biểu Ngày Quốc khánh 1 tháng 11, Thiệu tuyên bố rằng từ nay những người bất đồng chính kiến ​​sẽ không được phép “tuyên truyền tin tức vô căn cứ, tạo ra sự chia rẽ tôn giáo… nói xấu chính phủ, vu khống các viên chức nhà nước, phá hoại nền kinh tế”.
 
Sau lời cảnh báo của ông và sự phô trương sức mạnh ngày càng tăng, các cuộc biểu tình đã lắng xuống. Tuy nhiên, thiệt hại đã xảy ra. Một cuộc khảo sát ý kiến ​​công chúng do Chính quyền Sài Gòn tiến hành vào cuối năm 1974 cho thấy rằng lòng tin vào hiệu quả hoạt động của chính quyền và khả năng bảo vệ đất nước khỏi những người Cộng sản đang ở mức thấp nhất kể từ năm 1968. Thiệu đã mất hết uy tín còn lại với chính người dân của mình.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến