BỎ RƠI VIỆT NAM:
34-“HÒA BÌNH [KHÔNG] Ở TRONG TẦM TAY”
Tình hình quân sự ở Việt Nam ủng hộ cách tiếp cận của Nixon. Mặc dù ban đầu,
miền Nam đã loạng choạng dưới cuộc xâm
lược của Bắc Việt vào năm 1972, cuối cùng họ đã ổn định được tình hình, giành
được một số uy tín cho chiến lược Việt Nam hóa của tổng thống, qua đó cho phép
ông và Henry Kissinger theo đuổi chiến lược “khác”: đàm phán. Khi Nixon lên
truyền hình và phát thanh quốc gia vào ngày 8 tháng 5 năm 1972 để tuyên bố thả
mìn cảng Hải Phòng, phản ứng của người dân đối với tuyên bố ném bom đã làm lu mờ
các điều khoản giải quyết đưa ra cho Bắc Việt trong cùng một bài phát biểu—một
lệnh ngừng bắn, thả tù nhân và một cuộc rút quân hoàn toàn của Mỹ trong vòng bốn
tháng (không đề cập đến một cuộc rút quân tương ứng của Bắc Việt khỏi miền
Nam). Khi thủy triều lên cao trên chiến trường, Bắc Việt đã không đáp lại lời đề
nghị của Nixon. Tuy nhiên, khi đà tấn
công của họ chậm lại, Bắc Việt đã tỏ ra sẵn sàng hơn trong việc thảo luận về một
nền hòa bình được đàm phán. Ngoài ra, họ còn chịu áp lực từ Nga và Trung Quốc.
Chủ tịch Podgorny của Liên Xô đã đến Hà Nội vào tháng 6 và thẳng thắn nói với
các nhà lãnh đạo Bắc Việt rằng đã đến lúc đàm phán. Liên Xô quan tâm đến việc
hòa hoãn với Hoa Kỳ và cuộc chiến tranh liên tục ở Việt Nam đe dọa làm chệch hướng
tiến trình này. Người Trung Quốc cũng quan tâm đến việc thúc đẩy mối quan hệ tốt
hơn với người Mỹ. Vào mùa hè năm 1972, Chu Ân Lai đã thúc giục Cộng sản Bắc Việt
linh hoạt hơn. Do đó, Nixon và Kissinger, bằng cách tập trung các nỗ lực ngoại
giao vào việc cải thiện quan hệ với Liên Xô và Trung Quốc, đã cô lập Bắc Việt về
mặt chính trị.
Vẫn đang gồng mình dưới các trận oanh tạc từ trên không ở trong nước và bắt
đầu mất đi vị thế trên chiến trường và sự ủng hộ của những người bảo trợ Cộng sản,
Bắc Việt đã chuyển sang đàm phán. Chính
quyền Nixon cũng háo hức giải quyết thỏa thuận. Bị bao vây bởi các vấn đề với
Quốc hội và thành phần phản chiến luôn hiện hữu, Nhà Trắng rất muốn đạt được một
lối thoát khỏi Việt Nam, nhưng phải là một lối thoát mang lại một chút dáng dấp
của “hòa bình trong danh dự”. Nguyễn Văn Thiệu đã bước vào tình huống này. Theo
Tướng Davidson, trước đây Thiệu không quá quan tâm đến các điểm đàm phán của
Hoa Kỳ, ngay cả khi ông không đồng ý với chúng, bởi vì ông luôn nhận thức Hà Nội
sẽ từ chối bất kỳ điều khoản nào do Hoa Kỳ đưa ra. Tuy nhiên, khi năm 1972 trôi
qua, ông nhận ra rằng Nixon đang tìm kiếm một lối thoát qua đàm phán để rút khỏi Việt Nam và rằng Bắc Việt,
không thể đạt được chiến thắng với cuộc tấn công Nguyễn Huệ và đang choáng váng
vì những tác động của chiến dịch ném bom của Hoa Kỳ, đã cởi mở hơn với các cuộc
đàm phán nghiêm túc. Đối với Thiệu và chế
độ của ông, vốn hoàn toàn dựa vào Hoa Kỳ để tồn tại, một giải pháp đàm phán yêu
cầu rút toàn bộ lực lượng và hỗ trợ của Hoa Kỳ là một viễn cảnh đáng sợ. Như
Kissinger sau này đã viết trong hồi ký của mình, “Sau tám năm có sự tham gia của
Hoa Kỳ, người miền Nam đơn giản là không cảm thấy sẵn sàng đối đầu với Hà Nội nếu
không có sự tham gia trực tiếp của chúng tôi. Cơn ác mộng của họ không phải là
điều khoản này hay điều khoản kia mà là nỗi sợ bị bỏ lại một mình.” Thiệu lo sợ là Nixon và Kissinger, muốn giải
thoát Hoa Kỳ khỏi Đông Nam Á bằng mọi cách có thể, sẽ đưa ra một giải pháp bất
lợi sau lưng ông.
Vào tháng 6, Hà Nội trả lời bằng điện tín một công hàm từ Washington yêu
cầu nối lại các cuộc đàm phán bí mật, nói rằng, “Phía Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, thể hiện thiện chí của mình, đồng ý họp riêng.” Kissinger nhanh chóng trả lời và ngày 19
tháng 7 năm 1972 được ấn định cho ngày họp tiếp theo. Khi Kissinger và Lê Đức
Thọ gặp nhau tại Paris, Kissinger phát hiện ra sự thay đổi ngay lập tức trong
thái độ của các nhà đàm phán Bắc Việt. Tuy nhiên, Thọ và các đồng nghiệp của
ông không đưa ra bất kỳ đề xuất mới nào cũng không lùi bước trước các yêu cầu
trước đó. Cách tiếp cận cứng rắn liên tục của họ đã được Thủ tướng Phạm Văn Đồng
tóm tắt tốt nhất trong bài phát biểu vào tháng 2 năm 1972 như sau:
Nguyễn Văn Thiệu và bộ máy áp bức của ông ta… tạo thành chướng ngại vật chính đối với việc
giải quyết vấn đề chính trị ở miền Nam. Vì vậy, Nguyễn Văn Thiệu phải từ chức
ngay lập tức, chính quyền Sài Gòn phải chấm dứt chính sách hiếu chiến, giải tán
ngay bộ máy áp bức và kiềm chế người dân, chấm dứt chính sách “bình định”, giải
tán các trại tập trung, trả tự do cho những người bị bắt vì lý do chính trị và
đảm bảo… quyền tự do dân chủ. . . . Sau khi những điều trên đã đạt được, Chính
phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam sẽ thảo luận với chính quyền Sài Gòn về
việc thành lập một chính phủ ba thành phần của sự hòa hợp dân tộc nhằm tổ chức
tổng tuyển cử cho chính quyền chính thức của miền Nam.
Cuộc họp này không đạt được nhiều thành tựu, nhưng mối liên hệ với Bắc Việt
đã được thiết lập lại; họ đã đồng ý gặp lại nhà đàm phán Hoa Kỳ vào ngày 1
tháng 8. Kissinger được khích lệ vì ông
lưu ý đến thái độ mềm mỏng hơn của Bắc Việt, hy vọng báo hiệu một sự thay đổi lớn
trong lập trường đàm phán trước đây của họ. Mặc dù họ không nói rõ rằng họ đã từ
bỏ yêu cầu Thiệu từ chức, nhưng việc họ sử dụng các thuật ngữ như “hai chính
quyền”, “hai quân đội” và “ba thành phần chính trị”, ngụ ý lần đầu tiên họ ít
nhất công nhận tính hợp lệ của chính quyền
Thiệu. Kissinger báo cáo với Nixon rằng các nhà đàm phán Bắc Việt đã có thái độ
tích cực trong phiên họp đầu tiên này như chúng ta mong đợi nếu họ thực sự muốn
giải quyết”.
Tại một cuộc họp tiếp theo vào ngày 14 tháng 8, Kissinger đã nhận được
thêm sự khích lệ. Bắc Việt cho biết Hoa Kỳ phải ngừng ủng hộ chính quyền Thiệu
và đồng ý thành lập một liên minh. Tuy nhiên, họ không đề cập cụ thể đến việc
loại bỏ Thiệu hoặc nói về việc giải tán quân đội Sài Gòn; thay vào đó, họ ám chỉ
đến ba lực lượng chính trị—Sài Gòn, Cộng sản và một thành phần thứ ba trung lập.
Mặc dù không có gì chắc chắn từ phiên họp này, Kissinger coi các cuộc thảo luận
là một sự thay đổi lớn theo hướng đúng đắn, với Bắc Việt áp dụng giọng điệu hòa
giải hơn.
Nhận xét
Đăng nhận xét