BỎ RƠI VIỆT NAM:
32-NIXON TUYÊN BỐ VIỆT NAM HÓA
LÀ THÀNH CÔNG
Bất chấp thực tế của tình hình năm 1972, kết quả cuối cùng của các trận
chiến năm 1972 (không tính đến tác động của các cố vấn Hoa Kỳ và không quân Hoa
Kỳ) có thể được sử dụng làm bằng chứng cho thấy Việt Nam hóa đã có hiệu quả, hoặc
ít nhất là đang hiệu quả. Chính quyền Nixon đã rao giảng ý tưởng này cho tất cả
những ai muốn lắng nghe, sử dụng chiến thắng của miền Nam để tuyên bố chính
sách Việt Nam hóa của tổng thống là thành công. Như trợ lý của Henry Kissinger
là Les Janka đã nói với Tướng Haig, “Cách cuộc tấn công này được báo chí Hoa Kỳ
đưa tin có thể là phép thử cuối cùng thực sự về sự thành công của Việt Nam hóa…
vì chính người dân là đối tượng mà chúng ta phải thuyết phục.” Theo đó, chính
quyền đã bắt đầu một chiến dịch ngay lập tức
tạo ra bộ mặt tốt nhất cho chiến trường miền Nam. Ngay từ ngày 26 tháng
4, khi cuộc chiến vẫn diễn ra ác liệt trên ba mặt trận và cục diện vẫn còn rất
bị quan, Nixon đã lên truyền hình quốc gia để huy động sự ủng hộ cho miền Nam.
Ông báo cáo: miền Nam đang chiến đấu dũng cảm và giỏi giang trong công cuộc tự
vệ của mình. Họ đang gây ra thương vong rất nặng nề cho lực lượng xâm lược, lực
lượng đã không giành được chiến thắng dễ dàng như một số người dự đoán cách đây
ba tuần. . . . miền Nam sẽ chứng minh được khả năng tự vệ của mình trên bộ trước
các cuộc tấn công của kẻ thù trong tương lai. . . . Tôi xác nhận rằng Chiến
tranh Việt Nam đã tự thể hiện mình một cách đầy đủ để Hoa Kỳ có thể tiếp tục
chương trình rút quân mà không gây phương hại đến mục tiêu chung của chúng ta
là đảm bảo miền Nam tồn tại như một quốc gia độc lập. Do đó, tối nay tôi tuyên bố rằng trong hai
tháng tới, 20.000 người Mỹ sẽ được đưa về nước từ Việt Nam. Quyết định này có sự
chấp thuận hoàn toàn của Tổng thống Thiệu và Tướng Abrams. Quyết định này sẽ giảm
mức trần quân đội của chúng ta xuống còn 49.000 người vào ngày 1 tháng 7, giảm
đến nửa triệu quân kể từ khi chính quyền này nhậm chức. Mặc dù Nixon cũng tuyên
bố trong bài phát biểu này rằng cuộc ném bom Bắc Việt sẽ tiếp tục cho đến khi Cộng
sản ngừng cuộc tấn công, ông đã không đề cập rằng, dù đã cắt giảm quân số, ông
vẫn sẽ gửi thêm không quân và hải quân đến khu vực này để đảm bảo miền Nam
không bị tràn ngập.
Sau khi cuộc tấn công kết thúc, người phát ngôn của chính quyền đã hạ thấp
vai trò của không quân Hoa Kỳ và các cố vấn Hoa Kỳ và ca ngợi sự kiên định của
miền Nam. Trích dẫn “quyết tâm mạnh mẽ của
quân bảo vệ miền Nam,” họ tuyên bố chiến thắng ở An Lộc và Kontum là bằng chứng
rõ ràng cho thấy chính sách chuyển giao chiến tranh cho miền Nam đang có hiệu
quả. Một báo cáo của không quân được công bố ngay sau khi cuộc tấn công kết
thúc, cho rằng “Việt Nam hóa, xét về khả năng của lực lượng quân sự trên bộ và
trên không của Việt Nam Cộng hòa để đối đầu và chống lại đà nổi dậy của Cộng sản,
đã chứng minh được sự thành công của mình.” Nhiều người trong quân đội Hoa Kỳ tại
Việt Nam đồng ý với tuyên bố này. Các báo cáo của MACV được công bố vào thời điểm
đó đã ca ngợi thành tích của những người bảo vệ miền Nam. Đại tá Theodore C.
Williams Jr., cố vấn cấp cao, Sư đoàn 9 QĐVNCH, đã viết trong báo cáo tóm tắt của
sĩ quan cấp cao rằng “Nỗ lực cố vấn của Hoa Kỳ, được tăng cường bởi sự hỗ trợ của
không quân Hoa Kỳ, đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ hỗ trợ QLVNCH để tự định
hình thành một lực lượng mạnh mẽ, khả thi.” Tương tự như vậy, Đại tá John C.
Evans, cố vấn cấp cao, Sư đoàn 18 QĐVNCH, báo cáo rằng “có thể khẳng định chắc
chắn Sư đoàn Bộ binh 18, QĐVNCH, có khả năng chiến đấu liên tục mà không cần cố
vấn Hoa Kỳ”. Những báo cáo như vậy, mặc dù có thể hiểu được trong sự phấn khích
tự nhiên sau một trận chiến thành công và chiến đấu gian khổ, nhưng không tiết
lộ được kết quả của trận chiến đã sít sao như thế nào.
Chính quyền Nixon, sau khi xác lập “thành công” của Chiến tranh Việt Nam
hóa, không muốn nghe bất cứ điều gì trái ngược lại. Đại tá Bill Miller, khi trở
về Hoa Kỳ từ An Lộc vào tháng 5 năm 1972, đã được triệu tập trước Ủy ban Quân vụ
Hạ viện để làm chứng về thành tích của QĐVNCH tại An Lộc. Trong các phiên điều trần này (và trong các
cuộc thảo luận bổ sung với Thượng nghị sĩ John Stennis, Alexander Haig và các
quan chức chính phủ cấp cao khác cùng các thành viên của phương tiện truyền
thông), Miller đã làm chứng rằng theo ý kiến của ông, QĐVNCH thực sự không
giành được chiến thắng, mà chỉ đơn giản là tránh được thất bại với sự hỗ trợ của
các cố vấn và không quân Hoa Kỳ … Ông
cũng nói rằng việc loại bỏ các cố vấn và hỗ trợ không quân của Hoa Kỳ trước thời
hạn sẽ dẫn đến thảm họa cho Nam Việt Nam.
Cuối cùng, những cảnh báo của Miller và những người khác có cùng quan điểm
đã nhận được rất ít sự tin tưởng. Vào tháng 8, Bộ trưởng Quốc phòng Laird, muốn
giảm số lượng cố vấn Hoa Kỳ ở Nam Việt Nam, đã yêu cầu Hội đồng Tham mưu trưởng
Liên quân xem xét lại tình trạng của hoạt động cố vấn. Báo cáo kết quả đã chấp
thuận việc loại bỏ theo lịch trình thêm 1.700 vị trí cố vấn và giảm các nhóm cố
vấn sư đoàn từ 36 xuống còn 15. Một nghiên cứu riêng của Bộ Quốc phòng đã khuyến
nghị một lực lượng cố vấn gồm 2.500 người vào năm 1973 và giảm vai trò của các
cố vấn chiến đấu để tập trung nhiều hơn vào an ninh lãnh thổ và quản lý nhân sự.
Do đó, tại thời điểm cần các cố vấn nhất để giúp tái thiết QLVNCH sau thảm họa
gần như thảm khốc của cuộc tấn công của lực lượng Bắc Việt, thì số lượng của họ
đã bị cắt giảm và họ đã bị loại khỏi chiến trường.
Vào thời điểm này, sau khi được tuyên bố là một thành công vang dội, nỗ lực
Việt Nam hóa bắt đầu suy yếu. “Chiến thắng” của miền Nam năm 1972 đã trở thành
một trong những lý do cơ bản cho việc rút quân hoàn toàn của Hoa Kỳ và “hòa
bình trong danh dự” của Nixon.
Trong bài phát biểu trước Quốc hội vào ngày 1 tháng 6, khi trở về từ hội
nghị thượng đỉnh ở Moscow, Tổng thống Nixon đã nói: “Tôi nhấn mạnh với các bạn
một lần nữa, chính quyền này không có mục tiêu nào cao hơn—một mục tiêu mà tôi
biết tất cả các bạn đều chia sẻ—là kết thúc sớm và trong danh dự cuộc chiến
tranh Việt Nam. Chúng ta đang kết thúc cuộc chiến ở Việt Nam, nhưng chúng ta sẽ
kết thúc theo cách không phản bội bạn bè, không mạo hiểm mạng sống của những
người Mỹ dũng cảm vẫn còn đang phục vụ ở Việt Nam, không phá vỡ lòng tin với
chiến sĩ bị kẻ thù bắt làm tù binh, hoặc làm hoen ố danh dự của Hoa Kỳ.”
Màn kết sớm và trong danh dự này sẽ diễn ra như thế nào đối với miền Nam
vẫn chưa được biết. Rõ ràng là Hoa Kỳ đang trên đường rời khỏi miền miền Nam;
thử thách thực sự đối với Thiệu, quân đội của ông và quốc gia của ông sẽ đến
sau khi các lực lượng Hoa Kỳ, bao gồm cả lực lượng không quân có mặt khắp nơi
đã đóng vai trò quan trọng vào năm 1972, sẽ rời đi và Không quân Việt Nam Cộng
hòa phải tự mình đứng vững trên đôi chân của mình. Đó sẽ là biện pháp tối hậu của Việt Nam hóa.
Nhận xét
Đăng nhận xét