Chuyển đến nội dung chính
HC HOÀNG SA-1979-Kỳ 4-DIỄN BIẾN [2]
DIỄN BIẾN [2]
DIỄN BIẾN [2]
Hải quân Việt Nam Cộng hòa khai chiến
Việc đổ bộ thất bại được báo cáo ngay về Bộ Tư lệnh Hải quân Vùng I Duyên
hải. Chừng ít phút sau đó (vào khoảng 9 giờ 30 sáng) Phó Đô đốc Hải quân Việt
Nam Cộng hòa Hồ Văn Kỳ Thoại theo chỉ thị của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra khẩu
lệnh vắn tắt "khai hỏa" cho Đại tá Ngạc trên băng siêu tần số SSB
(single side band) và không có chi tiết gì khác hơn.
Ban đầu Đại tá Ngạc dự định cho hạm đội bắn pháo lên đảo để dọn đường cho
lính thủy đổ bộ. Sau đó do các Hạm trưởng khác phản đối, Đại tá Ngạc quyết định
tiêu diệt các tàu Trung Quốc trước. Lúc 10 giờ 22 cùng ngày, 2 chiến hạm của
phía Việt Nam Cộng hòa là HQ-16 và HQ-10 tiến vào lòng chảo Hoàng Sa theo thế gọng
kìm, nổ súng trước vào các tàu chiến Trung Quốc đang neo đậu trong khu vực này.
Các tàu Trung Quốc tích cực di chuyển và phản kích dữ dội. Hai chiến hạm còn lại
của Việt Nam Cộng hòa là HQ-4 và HQ-5 cũng tiến vào lòng chảo, tham chiến từ
phía tây nam. Vì tầm quan sát rất hạn chế, nên từ Tuần dương hạm HQ-5 không
quan sát được Tuần dương hạm HQ-16 và Hộ tống hạm HQ-10. Do máy liên lạc âm thoại
giai tần đơn bị Trung Quốc phá sóng nên Soái hạm chỉ có thể liên lạc với các
chiến hạm còn lại bằng máy PRC 25 nên việc liên lạc giữa các chiến hạm không
liên tục và ổn định.
Tình hình chiến sự
Sau vài phút hải chiến HQ-4 chỉ bị thiệt hại nhẹ nhưng do "trở ngại
tác xạ", không phát huy được hỏa lực, nên tàu này lùi ra xa và không tham
chiến tiếp, sau đó thì rút chạy luôn. Sau khoảng 15 phút giao chiến, HQ-10 bị
hư khẩu pháo chính 76 li trước mũi tàu, tàu bị bắn xối xả, bốc cháy tại chỗ; Hạm
trưởng là Ngụy Văn Thà tử trận vì bị mảnh đạn phạt ngang cổ, Đại úy Hạm phó Trí
bị thương nặng vẫn cố điều khiển HQ-10 húc vào tàu đối phương, ngay sau đó thì
Đại úy Trí ra lệnh thủy thủ bỏ tàu nhảy xuống biển.[29] HQ-16 trúng đạn pháo
127 ly của HQ-5 bắn nhầm, viên đạn xuyên thủng hầm máy khiến tàu bị nghiêng
trên 10 độ, tàu mất khả năng chiến đấu và phải rút lui về phía tây. Theo trưởng
khối hành quân của HQ-5 là Bùi Ngọc Nở, thì sau 15 phút chiến đấu, tàu HQ-5 bị
trúng đạn pháo của địch khiến các khẩu pháo 127 ly và (10 nòng pháo) 40 ly bị
vô hiệu hoá. Nhưng Hạm trưởng HQ-16 là Lê Văn Thự thì cho rằng tàu HQ-5 không hề
bị hư hại gì trong trận đánh, việc ông Bùi Ngọc Nở nói tàu bị hư hại nặng chỉ
là để biện hộ cho việc HQ-5 rút chạy sớm khỏi trận đánh.
Tài liệu Trung Quốc thì ghi nhận: các chỉ huy Trung Quốc nhận thức rõ sự
yếu thế về trang bị và vũ khí so với đối phương (tàu vừa nhỏ vừa cũ kỹ, công
nghệ lạc hậu), nên họ đã có sự chuẩn bị kỹ về chiến thuật và tinh thần. Ngay
sau khi nổ ra giao chiến, các tàu Trung Quốc lập tức cơ động, áp sát tàu địch
càng gần càng tốt để hạn chế ưu thế về radar và pháo cỡ lớn của đối phương. Có
những lúc, tàu chiến của họ chỉ cách chiếc HQ-10 khoảng 300 mét. Dù tàu nhỏ hơn
nhưng các thủy thủ Trung Quốc đã dũng cảm không rời vị trí, họ dùng cả súng bộ
binh và súng phóng lựu để nã vào tàu đối phương. Nỗ lực của Trung Quốc đã có kết
quả: tàu HQ-10 bị trúng đạn vào đài chỉ huy, Hạm trưởng bị thương và hỏa lực
trên tàu bị vô hiệu hóa, thủy thủ trên HQ-10 thì bỏ tàu nhảy xuống biển[3] Tài
liệu Trung Quốc mô tả:
Lúc 10:22, tất cả các tàu của đối phương khai hỏa, các tàu Trung Quốc liền
bắn trả. Do những phát pháo đầu tiên của cả hai bên được ngắm bắn từ trước, tất
cả những phát đạn đều bắn chính xác. 8 tàu chiến của cả hai bên đều bị bắn
trúng, và tàu 274 của Trung Quốc bị bắn trúng vào buồng lái, Chính ủy và thuyền
phó hy sinh. Ban chỉ huy Trung Quốc ra lệnh tiếp tục tiếp cận kẻ thù ở tốc độ
cao và chiến đấu bằng các phương pháp cận chiến... Các tàu của hai bên nhanh
chóng áp sát nhau. Tàu Trung Quốc lắp đặt pháo đôi cỡ nòng 25mm, 37mm và pháo cỡ
nòng nhỏ khác ở mũi và phía sau. Với tốc độ bắn nhanh, chúng trút cơn mưa đạn
lên tàu địch và đội hình của hải quân đối phương nhanh chóng bị phá vỡ.
Theo kế hoạch đã được thiết lập, các tàu 271 và 274 của Trung Quốc đã được
dành riêng để đấu với tàu HQ-4, chiếc HQ-4 nhanh chóng tung khói mù và vội vã bỏ
chạy. Tàu HQ-5 đã ngay lập tức bắn chặn vào tàu 274 đang đuổi theo và tàu 274 bị
bắn trúng. Hai tàu quét mìn khác của Trung Quốc là 389 và 396 cũng đánh cận chiến
với tàu HQ-10 và HQ-16, chúng nhanh chóng bốc cháy. Buồng chỉ huy của tàu 389
cũng bị đạn pháo địch phá hủy, gây thương vong nặng nề. Do sự cố của thiết bị
lái, tàu 389 đã lao vào giữa hai tàu Việt Nam và bị tấn công bằng hỏa lực. Một
quả đạn trúng giữa hai động cơ chính và phát nổ. May mắn thay, đám cháy đã được
dập tắt kịp thời. Để sửa chữa máy phát điện bị hư hỏng, cả năm binh sĩ đã chết
trong phòng máy, nơi chứa đầy khói thuốc súng và thiếu oxy trầm trọng.
Lúc này, pháo của cả hai bên đều vô dụng, và Đại úy chỉ huy tàu 389 đã nảy
ra sáng kiến: ném lựu đạn! Vào thời điểm đó, một số hộp lựu đạn đã được chất
lên tàu. Vì vậy, các thủy thủ Trung Quốc đã ném một loạt lựu đạn vào tàu HQ-10,
một số người nhặt súng tiểu liên và bắn vào tàu HQ-10, thậm chí có người cầm một
khẩu bazooka chống tăng để bắn tàu địch! Đến nỗi sau chiến tranh, quân Nam Việt
Nam đã thông báo với báo chí rằng "tàu chiến Trung Quốc đã sử dụng tên lửa".
Thuyền trưởng HQ-10 bị bắn chết tại chỗ, tàu 389 bị nghiêng nghiêm trọng. Sau
khi tàu 396 rút khỏi trận chiến, nó phải tự mắc cạn với sự hỗ trợ của tàu cá
Trung Quốc để tránh bị chìm. 3 tàu khác cũng bị hư hại ở các mức độ khác nhau
và không còn nhiều đạn.
Việc các tàu Trung Quốc dùng chiến thuật đánh cận chiến với HQ-10, HQ-16
cũng tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cao: các tàu Trung Quốc sẽ bị hở sườn và phơi mình
trước hỏa lực mạnh trên hai tàu HQ-4, HQ-5 đang khai hỏa từ một hướng khác. Các
tàu Trung Quốc đang tập trung đánh HQ-10 và HQ-16, nên HQ-4 và HQ-5 không lo bị
bắn, các tàu này chỉ cần ung dung bật radar ngắm bắn tự động và nã pháo từ xa,
chỉ cần 1 phát đạn pháo 127mm bắn trúng đích là đủ để đánh chìm hoặc làm hỏng nặng
1 tàu Trung Quốc. Nhưng điều bất ngờ là HQ-4, HQ-5 chỉ khai hỏa chút ít rồi
quay đầu rút chạy, bỏ mặc 2 tàu đồng đội đang phải chống đỡ tàu Trung Quốc áp
sát.
Theo lời kể của Lê Văn Thự, chỉ huy tàu HQ-16 thì: Phân đoàn II (gồm
HQ-16 và HQ-10) là cánh tham chiến chủ yếu, còn Phân đoàn I (gồm HQ-4 và HQ-5)
chỉ ở bên ngoài "nhìn và đợi". Và vì quá lo sợ Trung Quốc nên tin chắc
thế nào Phân đoàn II cũng bị đánh chìm, Đại tá Hà Văn Ngạc đã ra lệnh HQ-5 bắn
vào lòng chảo 5 - 7 phát trước khi rút lui. Mấy phát đạn này lại bắn trúng vào
đồng đội là chiếc HQ-16, khiến tàu HQ-16 bị hỏng nặng[20] Cũng theo Lê Văn Thự
thì:
Chừng khoảng phút thứ 20 hay 30, tôi thấy một tàu Trung Quốc bốc khói, một
tàu khác có lẽ bị trúng đạn làm hư hệ thống tay lái nên tàu cứ xoay quanh như
gà trống chạy lòng vòng trước khi đạp mái.
Tiếp đến HQ-10 báo cáo Hạm trưởng bị thương. Tôi ra lệnh Hạm phó lên thay
quyền chỉ huy, đồng thời đặt ống nhòm nhìn sang HQ-10 tôi thấy một ngọn lửa nhỏ
cháy ở đài chỉ huy có thể dập tắt được bằng bình CO2 mà sao không ai làm. Quan
sát phía sau lái HQ-10 tôi thấy bốn, năm cái đầu nhấp nhô trên mặt biển. Tôi
không biết chuyện gì xảy ra trên HQ-10 vì không nghe báo cáo gì thêm. Tôi đoán
chừng vì Hạm trưởng bị thương nặng nên HQ-10 như rắn mất đầu. Một số thủy thủ
nhát gan sợ tàu cháy hay trúng đạn nổ nên đã bỏ tàu nhảy xuống biển. Nhưng
HQ-10 vẫn nổi bình thường, thăng bằng, không nghiêng một chút nào cả.
Trận chiến Hoàng Sa rất giản dị, chẳng có chiến thuật gì rắc rối, phức tạp
cả. Tôi chỉ khai thác sơ hở của ba chiến hạm Trung Quốc tập trung một chỗ trong
lòng chảo để tấn công. Nếu thủy thủ đoàn HQ-16 và HQ-10 có kinh nghiệm tác xạ,
HQ-16 không bị trúng đạn của đồng đội (HQ-5) và Hạm trưởng HQ-10 không bị
thương thì chắc chắn ba tàu Trung Quốc phải bị đánh chìm. Tôi còn nghi vấn về Hạm
trưởng HQ-10 bị thương là do đạn của Trung Quốc hay cũng bị trúng đạn của đồng
đội là HQ-4, HQ-5.
Khoảng 11 giờ 25, sau khi nhận được tin HQ-16 trúng đạn và mất liên lạc với
HQ-10, Đại tá Ngạc ra lệnh cho HQ-4 và HQ-5 rút lui về phía đông nam, hướng về
vịnh Subic, Philippines. Sau này, Đại tá Ngạc giải thích rằng ông đã phát hiện
một chiến hạm của Trung Quốc có trang bị mỗi bên 1 dàn phóng hỏa tiễn chống hạm,
cách xa chừng 8 đến 10 hải lý đang tiến vào vùng giao tranh với một tốc độ cao.
Ông nghĩ rằng Hải đội không thể để bị thiệt hại một Khu trục hạm trong khi Hải
quân Việt Nam Cộng hòa chỉ có tổng cộng 2 chiếc. Nhưng theo Trung tá Lê Văn Thự,
Đại tá Ngạc ra lệnh rút lui vì "lo sợ cả phản lực cơ và Tiềm thủy đĩnh
Trung Quốc nên không còn tinh thần để chiến đấu nữa". Lê Văn Thự cho rằng
chuyện phía đông xuất hiện một chiến hạm Trung Quốc có trang bị hỏa tiễn chỉ là
tưởng tượng của ông Ngạc vì "cách xa chừng 8 đến 10 hải lý (khoảng 18 km)
khó mà thấy được mỗi bên một giàn phóng hỏa tiễn". Nhận định của Lê Văn Thự
là phù hợp với các tài liệu Trung Quốc (trong trận này, các tàu của Trung Quốc
đều là tàu săn ngầm cỡ nhỏ, không được trang bị hỏa tiễn, cái gọi là "hỏa
tiễn" thực ra chỉ là đạn súng chống tăng vác vai).
Theo tài liệu Trung Quốc, đến thời điểm 11h20, cả bốn tàu của họ đều bị
hư hại (một tàu phải ủi bãi, một tàu bốc cháy), đạn dược cũng sắp hết. Nếu trận
hải chiến kéo dài hơn thì khó có thể nói trước ai sẽ chiến thắng. Tuy nhiên,
đúng lúc này thì đội tàu của Việt Nam Cộng hòa quay đầu tháo lui, bỏ lại HQ-10
đang bị hỏng nặng. Một lúc sau, 2 tàu chống ngầm số hiệu 281 và 282 của Trung
Quốc đến nơi khi trận đánh đã kết thúc. 2 tàu này đánh chìm HQ-10 (lúc này đã
hư hại hoàn toàn) bằng 2 loạt đạn.
Việt Nam Cộng hòa rút lui
Trong thời gian xảy ra chiến sự, Bộ Tư lệnh Hải quân Việt Nam Cộng hòa nhận
được thông báo của Văn phòng Tùy viên Quân sự Hoa Kỳ (DAO) tại Sài Gòn, cho biết
radar Đệ thất Hạm đội ghi nhận một số tàu chiến và chiến đấu cơ từ Hải Nam đang
tiến về phía Hoàng Sa. Số tàu chiến chi viện của Trung Quốc vẫn chưa được xác định
chính xác nhưng có thể bao gồm 2 tàu chống ngầm số hiệu 281 và 282 thuộc lớp
tàu Hải Nam. Phó Đô đốc Hải quân Việt Nam Cộng hòa Hồ Văn Kỳ Thoại cho biết họ
phải quyết định rút lui khi cố vấn Hoa Kỳ cho biết 17 chiến hạm của Trung Quốc
trong đó có 4 tàu ngầm đang trên đường tới khu vực và khả năng là sẽ có phi cơ
phản lực tới từ đảo Hải Nam nếu Việt Nam Cộng hòa quyết định tăng viện 2 chiến
hạm cho Hoàng Sa, nhưng phía Việt Nam Cộng hòa chỉ có phi cơ khu trục F-5 thuộc
Sư đoàn 1 Không quân tuy đang sẵn sàng hỗ trợ cho hải đội tại Hoàng Sa nhưng lại
không đủ sức hoạt động lâu tại đây.
Bộ Tư lệnh Hải quân Việt Nam Cộng hòa sau đó yêu cầu Hạm đội 7 trợ giúp,
nhưng phía Mỹ từ chối, thậm chí Hạm đội 7 từ chối cả việc cứu những thủy thủ của
tàu HQ-10 đang trôi dạt trên biển. Sau khi Bộ Tư lệnh cân nhắc tương quan lực
lượng, các chiến hạm Việt Nam Cộng hòa được lệnh rút bỏ quần đảo Hoàng Sa.
Sau trận đánh, đội hình của Việt Nam Cộng hòa bị tan rã:
HQ-10 chìm tại trận
HQ-16 bị hỏng nặng, quay đầu chạy về Đà Nẵng. Trên đường rút lui, HQ-16
đưa 8 quân nhân lên giữ đảo Hoàng Sa.
HQ-4 còn nguyên vẹn, còn HQ-5 thì không rõ tình trạng, 2 tàu này tìm cách
vòng qua Hoàng Sa để chạy sang Phillipines. Khoảng 14 giờ 30 ngày 19/01/1974,
khi ngang qua đảo Tri Tôn thì HQ-5 được lệnh của Tư lệnh Hải quân từ Đà Nẵng:
"HQ-4 và HQ-5 phải quay trở lại Hoàng Sa, nếu cần thì ủi bãi". Nhưng
các tàu này không hề quay lại và không lâu sau đó có một lệnh tiếp theo từ Đà Nẵng,
lệnh cho HQ-4 và HQ-5 trở về Đà Nẵng.
Đêm hôm đó, 3 chiến hạm Việt Nam Cộng hòa bị hư hại rút về tới căn cứ. Về
đến Đà Nẵng, khi kiểm tra thì mới biết HQ-16 trúng một viên đạn 127mm bắn cầu vồng
từ HQ-5 rơi xuống nước gặp sức cản của nước bị lệch hướng rồi đâm vào lườn tàu
HQ-16 dưới mặt nước. Theo tường thuật của Trung tá Lê Văn Thự: "Viên đạn
xước qua một góc máy điện, xuyên đứt cánh tay Trung sĩ Điện khí Xuân kế đó rồi
chui vào kho điện khí ở một góc hầm máy và nằm ở đó". Trung tá Lê Văn Thự
nói rằng HQ-16 đã gặp may, vì nếu viên đạn 127mm mà nổ thì HQ-16 sẽ chìm tại chỗ,
và cũng chẳng còn chứng cứ nào để bóc trần việc HQ-5 đã bắn vào đồng đội.
Hộ tống hạm HQ-10 bị trúng đạn, hư hại nặng và chìm. Trung tá Lê Văn Thự
còn tỏ ý nghi ngờ rằng HQ-10 cũng đã bị tàu đồng đội là HQ-4, HQ-5 bắn vào chứ
không chỉ bị trúng đạn của Trung Quốc
HQ-4 rút lui ngay từ đầu do "trở ngại tác xạ" nên chỉ bị thiệt
hại nhẹ. Về tàu HQ-5 thì lời kể có nhiều mâu thuẫn. Theo sĩ quan Bùi Ngọc Nở
thì HQ-5 thiệt hại rất nặng: "đếm được tất cả là 102 lỗ đạn đại bác 100
ly, còn đạn đại bác 37 ly lỗ nhỏ hơn và nhiều không đếm được, riêng đài chỉ huy
trúng mười mấy trái đại bác 100 ly nhưng may mắn là nhờ hai lớp thép bảo vệ nên
khi xuyên qua hai lớp thép này thì hết tầm" (thực ra tàu Trung Quốc không
có pháo 100mm mà chỉ có pháo 85mm). Tuy nhiên, theo Hạm trưởng HQ-16 là Lê Văn
Thự thì "Sự thật HQ-4 và HQ-5 chẳng bị trầy một mảnh sơn nào cả. Cả Hải
quân đều biết. Vì thế cho nên chỉ một mình HQ-16 được tiếp đón ở Sài Gòn và gắn
huy chương chứ không có Đại tá Ngạc hay HQ-4 và HQ-5".
Trung Quốc chiếm toàn bộ Hoàng Sa
Trong khi chiến sự đang diễn ra tại Hoàng Sa, Diệp Kiếm Anh, Đặng Tiểu
Bình và Tô Chấn Hoa báo cáo lên Mao Trạch Đông đề nghị cho phép quân đội Trung
Quốc chiếm tất cả các đảo do Việt Nam Cộng hòa kiểm soát. Mao đã chấp thuận đề
nghị này. Khi hải chiến Hoàng Sa kết thúc, sau khi nghe báo cáo, Đặng Tiểu Bình
đã chỉ thị cho Quân khu Quảng Châu tiếp tục đánh chiếm các đảo Hoàng Sa, Hữu Nhật
và Quang Ảnh.
Ngày 20 tháng 1, tàu Trung Quốc bắn pháo vào các đảo Hữu Nhật, Quang Ảnh
và Hoàng Sa. Trung Quốc pháo kích vào các đảo suốt 1 giờ, nhưng điều kỳ lạ là
các phát bắn không trúng bất cứ công trình nào, cũng không gây ra bất cứ thương
vong nào. Có thể vì Trung Quốc e ngại có người Mỹ trên đảo, nếu gây sát thương
cho người Mỹ thì sẽ gặp rắc rối ngoại giao, nên tàu Trung Quốc chỉ bắn để hăm dọa
chứ không nhằm tiêu diệt đối phương trên đảo.
Tiếp đó, quân Trung Quốc đổ bộ tấn công các đơn vị đồn trú của Việt Nam Cộng
hòa trên các đảo này. Sau 20 phút, lực lượng của Việt Nam Cộng hòa trên các đảo
bị mất liên lạc với đất liền.
Hải quân Trung Quốc thời đó chưa có tàu đổ bộ chuyên dụng, tất cả binh sỹ
của họ được đưa ra Hoàng Sa bằng các tàu đánh cá. Theo bản tường trình của cố vấn
Gerald Kosh (hiện nay đã được công bố), phía Trung Quốc chỉ có xuồng cao su nên
chỉ chở được bộ binh trang bị ở mức cơ bản: AK-47 hoặc súng Carbin, họ không sử
dụng vũ khí hạng nặng (đại liên, súng cối), cũng không có xe tăng lội nước hoặc
xe thiết giáp yểm trợ. Do trang bị đổ bộ thiếu thốn nên Trung Quốc dự tính
thương vong khi đổ bộ sẽ khá cao nếu bị quân Việt Nam Cộng hòa bắn trả. Để bù đắp
việc thiếu hụt trang bị, Trung Quốc đã huy động số quân đổ bộ khá lớn: khoảng
500 lính Trung Quốc được huy động cho chiến dịch đổ bộ
Lực lượng của Việt Nam Cộng hòa trên các đảo bao gồm 1 trung đội (khoảng
48 lính và sĩ quan), có thêm 1 cố vấn Mỹ là Gerald Kosh. Trang bị của đơn vị
này gồm: mỗi lính đều có một khẩu súng trường M16 và nhiều băng đạn, ngoài ra
còn có 1 súng cối 60mm và 1 súng đại liên. Với trang bị tốt cộng thêm công sự
phòng ngự, lực lượng này có thể chặn đứng quân Trung Quốc đổ bộ đông gấp nhiều
lần, cầm cự chờ chi viện từ đất liền.
Tuy nhiên, diễn biến cuộc đổ bộ thuận lợi đến bất ngờ cho phía Trung Quốc:
quân Việt Nam Cộng hòa không bắn trả nên quân Trung Quốc không chịu bất kỳ
thương vong nào.[34] Quân Trung Quốc nhanh chóng chiếm các đảo vì quân Việt Nam
Cộng hòa đóng trên các đảo đã bỏ vị trí chiến đấu, chạy vào khu lùm cây giữa đảo
rồi buông súng đầu hàng ở đó. Đến trưa thì lính Trung Quốc đã bắt được 49 tù
binh gồm 1 người Mỹ, 23 lính địa phương quân, 6 sĩ quan Quân đoàn 1, 5 nhân
viên khí tượng, 1 sĩ quan và 14 quân nhân hải quân.
Theo lời binh nhì Nguyễn Đức, từng đóng ở Hoàng Sa khi trận đánh diễn ra,
thì quân Việt Nam Cộng hòa đóng ở trên đồi, ngồi trong lô cốt, cơ số đạn trang
bị có thể tiêu diệt số lượng quân gấp mười lần số lính Trung Quốc đang đổ bộ.
Nhưng rồi tất cả đã đầu hàng mà không chống trả[40]:
"Ông cố vấn người Mỹ nói sao đó với chỉ huy trưởng, sau đó có lệnh đầu
hàng, chúng tôi phải cởi áo trắng cắm làm cờ và chạy lên phía rừng, thả súng chờ
quân Trung Quốc tới bắt. Cuối cùng bị bắt sang Trung Quốc, chuyện là vậy, ông cố
vấn Mỹ khi sang Trung Quốc thì không thấy đâu nữa, chỉ có chúng tôi gồm 43 người,
kể cả chỉ huy. Nói chung là cho đến bây giờ tôi cũng không hiểu vì sao lại có
chuyện tự dưng đang thắng lại chuyển sang bại, đang đánh lại đầu hàng và vì sao
chúng tôi được đối xử không tệ trong nhà tù?"
Sau trận đánh, nhà viết kịch Lục Trụ Quốc đã được giao nhiệm vụ đi phỏng
vấn tại đảo để đưa trận hải chiến lên điện ảnh. Điều khôi hài nhất mà ông biết
được qua phỏng vấn là khi quân Việt Nam Cộng hòa đầu hàng, họ không có cờ trắng
nên đã vẫy những chiếc quần đùi trắng để đầu hàng.
Theo bản tường trình của cố vấn Gerald Kosh, phía Trung Quốc đối xử khá tốt
với tù binh, có lẽ vì thấy quân Việt Nam Cộng hòa không chống trả gì. Ban đầu,
một số nhỏ tù binh bị trói tay bằng những sợi dây nhỏ, nhưng đến khi củng cố
xong, tất cả tù binh đều được cởi trói. 48 tù binh được canh chừng bởi khoảng từ
35 đến 40 lính Trung Quốc, mỗi tù binh được cho uống nước và được mời hút thuốc
lá, họ chỉ không được phép nói chuyện riêng. Sau khi khám xét, lính Trung Quốc
trả lại cho họ đồ dùng cá nhân không liên quan đến quân sự (kể cả tiền bạc).
Nhiếp ảnh viên Trung Quốc sử dụng máy ảnh Leica chụp rất nhiều hình tù binh, có
vài bức hình chụp cả nhóm tù binh đứng chung với sỹ quan Trung Quốc. Sau này,
khi được thả về nước, mỗi tù binh còn được Trung Quốc tặng quà, bao gồm cả những
bức tranh vẽ gấu trúc khá đẹp
Theo tiến sĩ Balazs Szalontai - một nhà nghiên cứu độc lập ở Hungary,
Trung Quốc quyết định chiếm quần đảo Hoàng Sa trước khi Việt Nam Cộng hòa sụp đổ
- nghĩa là trước khi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có thể chiếm quần đảo.
Nhận xét
Đăng nhận xét