Chuyển đến nội dung chính
HC HOÀNG SA-1974-Kỳ 1-BỐI CẢNH
Kỳ 1:
BỐI CẢNH
BỐI CẢNH
Tuyên bố chủ quyền của các bên
Theo quan điểm của Trung Quốc, họ tuyên bố có chủ quyền từ suốt 2.000 năm
qua đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa:
Quần đảo Hoàng Sa kể từ khi bắt đầu thời kỳ nhà Hán (năm 206 trước công
nguyên) đã được ghi nhận vào lãnh thổ Trung Quốc, các triều đại về sau vẫn có
các hoạt động phát triển, các lực lượng hải quân Trung Quốc từ thời nhà Tống
(năm 960-1279) đã gửi quân kiểm tra thường xuyên quần đảo này, kéo dài cho đến
những năm cuối triều đại nhà Thanh (tức năm 1910).
Có một số di tích văn hóa Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa có niên đại từ
thời kỳ nhà Đường và nhà Tống và có một số bằng chứng về nơi cư trú của người
Trung Quốc trên các đảo trong giai đoạn này Trong cuốn sách Võ công thông bảo
được xuất bản trong triều nhà Tống năm 1044, có ghi nhận lãnh thổ Trung Hoa bao
gồm các quần đảo trong khu vực tuần tra của Hải quân nhà Tống.
Trung Quốc đã gửi lực lượng hải quân tới các đảo vào năm 1902 và 1907, đặt
cờ và đánh dấu trên các đảo. Nhà nước kế tiếp triều đại nhà Thanh là Trung Hoa
Dân quốc đã tuyên bố quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa thuộc thẩm quyền của quận Hải
Nam.
Năm 1933, nhân lúc Trung Quốc bị suy yếu do nội chiến, Pháp đã chiếm đóng
9 hòn đảo ở quần đảo Trường Sa. Đến Thế chiến 2, quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
đã bị xâm chiếm bởi Nhật Bản, rồi sau khi Nhật Bản thua trận thì lại thuộc về
Pháp. Chính phủ Trung Hoa Dân quốc tuyên bố có chủ quyền không thể xâm phạm ở 2
quần đảo và lên án sự chiếm đóng trái phép của Pháp và Nhật Chính phủ kế tục là
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (thành lập năm 1949) tiếp tục duy trì lập trường
này.
Theo quan điểm của Việt Nam, từ thế kỷ 17, trên các bản đồ và các tài liệu
lịch sử Việt Nam đã khẳng định nước này có chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa:
Vào thế kỷ 17, các chúa Nguyễn đã cử các hải đội ra khảo sát, khai thác hải
sản tại khu vực quần đảo.
Năm 1816, vua Gia Long sai quân lính ra quần đảo Hoàng Sa để cắm cờ.
Năm 1933, Pháp tách quần đảo Hoàng Sa ra khỏi tỉnh Nam Nghĩa và đặt vào tỉnh
Thừa Thiên và cho một đơn vị đóng quân ở đó.
Sau khi trở lại Đông Dương, Pháp đã yêu cầu quân Trung Hoa Dân quốc rút
khỏi các đảo mà họ đã chiếm giữ năm 1946 và Pháp đã cho quân thay thế quân
Trung Quốc, xây dựng lại trạm khí tượng, đài vô tuyến.[9]
Năm 1956, Hải quân Trung Quốc chiếm nhóm đảo phía Đông quần đảo Hoàng Sa
(nhóm An Vĩnh) trong đó có đảo Phú Lâm (Woody Island) và đảo Linh Côn. Cho đến
khi trận hải chiến diễn ra, mỗi bên giữ một phần quần đảo và đều tuyên bố có chủ
quyền trên toàn bộ quần đảo.
Các tranh chấp
Quần đảo Hoàng Sa gồm hai nhóm đảo. Nhóm đảo mà Việt Nam Cộng hòa kiểm
soát là nhóm Nguyệt Thiềm hay Trăng Khuyết, Lưỡi Liềm (Crescent Group) nằm ở
phía Tây của quần đảo (gần đất liền Việt Nam); nhóm còn lại là nhóm An Vĩnh hay
nhóm Bắc đảo (Amphitrite Group) (bấy giờ quen gọi là "Tuyên Đức" -
tên Trung Quốc của nhóm An Vĩnh).
Năm 1951, tại Hội nghị San Francisco về Hiệp ước Hòa bình với Nhật Bản,
Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Quốc gia Việt Nam Trần Văn Hữu tuyên bố
cả hai quần đảo Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa đều thuộc lãnh thổ Việt Nam, và
không gặp phải kháng nghị hay bảo lưu nào từ 51 nước tham dự hội nghị. Tuy
nhiên, hội nghị xét thấy không nước nào có đủ chứng cứ pháp lý nên quyết định
không công nhận chủ quyền của bất kỳ nước nào ở quần đảo Hoàng Sa, quần đảo được
xem là vô chủ. Năm 1954, Pháp rút khỏi Việt Nam, trao lại quyền kiểm soát 2 quần
đảo cho Quốc gia Việt Nam. Tại quần đảo khi đó đã có đài khí tượng trên đảo
Hoàng Sa do Pháp xây, trực thuộc Ty Khí tượng Đà Nẵng và được bảo vệ bởi một tiểu
đoàn thủy quân lục chiến.
Năm 1956, Hải quân Trung Quốc chiếm nhóm đảo phía Đông quần đảo Hoàng Sa
(nhóm An Vĩnh) trong đó có đảo Phú Lâm (Woody Island) và đảo Linh Côn. Phía Việt
Nam Cộng hòa không có hành động đáp trả quân sự. Trung Quốc cho là Thứ trưởng
Ngoại giao Ung Văn Khiêm của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã nói: "Theo dữ liệu
của Việt Nam, quần đảo Tây sa và quần đảo Nam Sa về mặt lịch sử là một phần
lãnh thổ của Trung Quốc", trong khi tiếp đại diện lâm thời của Đại sứ quán
Trung Quốc tại Việt Nam Lý Chí Dân vào ngày 15/6/1956.
Năm 1958, Trung Quốc cho công bố bản Tuyên ngôn Lãnh hải 4 điểm về việc mở
rộng vùng lãnh hải lên 12 hải lý, tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc đối với các
quần đảo và phạm vi 12 lãnh hải biển tương ứng với các đảo này, bao gồm Nam Sa
(tức Trường Sa), Đài Loan, Tây Sa (tức Hoàng Sa), Trung Sa (tức bãi
Macclesfield), quần đảo Bành Hồ (Pescadores)[1]. Ngày 22 tháng 9 năm 1958, báo
Nhân dân đăng công hàm của Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồng gửi
Thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc, ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4
tháng 9 năm 1958 của chính phủ Trung Quốc "quyết định về hải phận 12 hải
lý" của Trung Quốc.
Năm 1961, chính phủ Việt Nam Cộng hòa ban hành sắc lệnh tuyên bố chủ quyền
Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam của Việt Nam Cộng hòa. Trong khi đó, Đài Loan (tức
chính phủ Trung Hoa Dân quốc) và Trung Quốc (tức chính phủ Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa) đều không chấp nhận chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo, cả hai
chính phủ này đều có chung lập trường rằng Hoàng Sa và Trường Sa là thuộc chủ
quyền của người Trung Hoa.
Trong thời gian 1964-1970, Hải quân Trung Quốc và Hải quân Việt Nam Cộng
hòa chạm súng liên tục trên hải phận Hoàng Sa, nhưng không đưa đến thương vong.
Trong thời điểm đó, Việt Nam Cộng hòa cũng thiết lập một sân bay nhỏ tại đảo
Hoàng Sa.
Theo giáo sư Lý Hiểu Binh (Xiaobing Li), Đại học Central Oklahoma trong
bài viết gửi BBC cho rằng vào tháng 3/1969, Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc
bắt đầu rút khỏi lãnh thổ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, giảm dần từ 16 sư đoàn, gồm
150 nghìn quân xuống không còn đơn vị nào vào tháng 7/1970, đồng thời Trung Quốc
cắt giảm viện trợ quân sự và dân sự cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Liên Xô thay
thế Trung Quốc trở thành quốc gia hỗ trợ kinh tế, quân sự nhiều nhất cho Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa. Quan hệ giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Trung Quốc ngày
càng lạnh nhạt, thay vào đó Việt Nam Dân chủ Cộng hòa xem Liên Xô là đồng minh
quan trọng nhất. Cùng thời điểm này, mối quan hệ giữa Liên Xô và Trung Quốc xấu
đi. Từ đầu tháng 3/1969 bắt đầu có nhiều cuộc xung đột quân sự quy mô nhỏ dọc
biên giới Trung – Xô, cả hai nước ở tình trạng chiến tranh có thể nổ ra bất cứ
lúc nào. Sang đầu năm 1970, Liên Xô triển khai 48 sư đoàn, tương đương gần một
triệu quân dọc biên giới Trung Quốc. Còn Trung Quốc tập trung sáu triệu quân tại
biên giới với Liên Xô. Thậm chí còn có nguồn tin cho rằng lãnh đạo Liên Xô đã
tính đến việc dùng vũ khí nguyên tử tấn công Trung Quốc nếu cần. Mâu thuẫn với
Liên Xô đã thúc đẩy lãnh đạo Trung Quốc bình thường hóa quan hệ Mỹ – Trung vào
năm 1973.
Năm 1970, Hoa Kỳ và Nhật Bản ký Hiệp ước trao trả Okinawa (Okinawa
Reversion Treaty) trao trả quần đảo Senkaku (Sento Shosho hay Senkaku Retto của
Nhật Bản) về dưới chủ quyền của Nhật Bản với sự phản đối của Đài Loan và Trung
Quốc; và cùng năm Đô đốc Elmo Zumwalt, cựu Tham mưu trưởng Hải quân Hoa Kỳ họp
báo tuyên bố tại Guam rằng Hoàng Sa và Trường Sa không nằm trong chiến lược triển
khai các hải đảo tiền đồn của Đệ thất Hạm đội Hoa Kỳ. Theo nhận định của Hải
quân Việt Nam Cộng hòa thì đây là sự kiện trao đổi giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc,
và là nguy cơ cho Việt Nam Cộng hòa trong việc bảo vệ Hoàng Sa.
Năm 1971, Hải quân Trung Quốc và Hải quân Việt Nam Cộng hòa tiếp tục chạm
súng trên hải phận Hoàng Sa. Những năm cuối của cuộc Chiến tranh Việt Nam, vì
nhu cầu chiến trường, tiểu đoàn thủy quân lục chiến của Việt Nam Cộng hòa đóng
tại Hoàng Sa được đưa vào đất liền, chỉ còn một trung đội địa phương quân trấn
giữ nhóm Nguyệt Thiềm (Lưỡi Liềm). Sau này, ông Hoàng Đức Nhã giải thích việc
Việt Nam Cộng hòa không chú trọng bảo vệ Hoàng Sa là do lúc đó chính phủ này ưu
tiên chống đỡ sự tấn công của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hơn là bảo vệ Hoàng Sa.
Tháng 2 năm 1972, Tổng thống Mỹ Richard Nixon tới Trung Quốc hội kiến Mao
Trạch Đông. Mỹ và Trung Quốc đưa ra tuyên bố chung là Thông cáo Thượng Hải,
trong đó phản đối "bá quyền" tại châu Á và Thái Bình Dương. Cũng từ
năm 1972, Trung Quốc chấm dứt viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đổi lại Mỹ
công nhận chính sách "Một Trung Quốc", theo đó họ bỏ phiếu loại Đài
Loan ra khỏi Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc để Trung Quốc thay thế. Năm 1973,
Trung Quốc và Mỹ mở văn phòng liên lạc ở thủ đô mỗi nước, mở đầu cho việc bình
thường hóa quan hệ giữa hai nước.
Năm 1973, với Hiệp định Paris, Hoa Kỳ và Hạm đội 7 rút quân và thiết bị của
Hoa Kỳ ra khỏi khu vực quần đảo Hoàng Sa. Như vậy Hoa Kỳ đã xem tranh chấp tại
quần đảo này không phải là việc của họ. Việc Mỹ rút quân và kết làm đồng minh
đã giúp Trung Quốc có thể điều quân đánh chiếm Hoàng Sa mà không lo ngại sẽ xảy
ra xung đột với Mỹ.
Cuối năm 1973, Trung Quốc lên án hải quân Việt Nam Cộng hòa đã có những
hành động bạo lực tàn nhẫn nhằm vào ngư dân Trung Quốc đánh cá ở vùng biển quần
đảo Tây Sa, bắt giữ ngư dân Trung Quốc, và tra tấn để buộc họ phải thừa nhận quần
đảo Tây Sa là lãnh thổ của Việt Nam.
Ngày 11/1/1974 Bộ Ngoại giao Trung Quốc ra tuyên bố Hoàng Sa, Trường Sa
là lãnh thổ của Trung Quốc và tố cáo Việt Nam Cộng hòa chiếm đóng quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa. Sau đó, Việt Nam Cộng hòa ra tuyên bố khẳng định Hoàng
Sa, Trường Sa là lãnh thổ của Việt Nam và bác bỏ những cáo buộc của Trung Quốc.
Trước tình hình đó, Bộ Tư lệnh Hải quân Việt Nam Cộng hòa quyết định thiết
lập một phi trường trên đảo Hoàng Sa có khả năng chuyên chở vận tải cơ hạng nặng
C-7 Caribou để chuyển quân nhanh ra nhóm Nguyệt Thiềm. Ngày 16 tháng 1 năm
1974, khi một phái đoàn của Quân lực Việt Nam Cộng hòa thăm dò một số đảo ở quần
đảo Hoàng Sa trong việc chuẩn bị thiết lập phi trường nói trên thì khám phá ra
sự hiện diện của Hải quân Trung Quốc, và giao tranh xảy ra sau đó.
Nhận xét
Đăng nhận xét