MANG – MỂN
MANG –
MỂN
Trước
nhất, cần phân biệt mang trong mang thai (ghi là mang 1) với mang trong có mang
(ghi là mang 2).Trong mang thai thì mang 1 là một động từ mà Từ điển tiếng Việt 2008 do Hoàng Phê chủ biên giảng là “có ở trên người, trên mình, ở một vị trí nhất định nào đó”, với mấy ví dụ, trong đó có mang thai. Còn có mang thì được chuyển giảng về có thai mà có thai thì được giảng là “[người phụ nữ] đang mang thai trong bụng”. Chúng tôi chỉ muốn dựa vào lời giảng trên đây để khẳng định rằng trong có mang thì mang 2 là một danh từ đồng nghĩa với thai, dùng làm bổ ngữ cho động từ có. Cả hai chữ mang đều là những từ Việt gốc Hán.
Mang 1 bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ [蒙] mà âm Hán Việt hiện hành là mông trong mông ân [蒙恩], có nghĩa là “mang ơn, đội ơn”. Tương quan ÔNG ↔ ANG giữa mông và mang là một mối quan hệ rất xưa, còn có thể thấy được qua việc chữ công [工] vần ÔNG hài thanh cho các chữ giang [江,杠,扛,肛] vần ANG.
mển thì sao? Dictionarium Anamitico Latinum (viết tay, 1772 - 1773) của Pierre Pigneaux de Béhaine và từ điển cùng tên của J.L.Taberd ấn hành tại Serampore năm 1838 đều có ghi nhận mang mển và đối dịch là “in utero gestare” (mang thai trong tử cung). Đại Nam quấc âm tự vị của Huình-Tịnh Paulus Của giảng mang mển là “có nghén” và có mang có mển là “có thai, có nghén”. Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức giảng mang - mển là “có chửa nặng - nhọc”. Vậy mển có nghĩa là “thai” hoặc “có thai”. Đây là một từ Việt gốc Hán, bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ [娩], mà âm Hán Việt hiện hành là miễn, có nghĩa là “đẻ con, sinh con”.
Nhận xét
Đăng nhận xét