Chuyển đến nội dung chính
BỤNG LÀM DẠ CHỊU
BỤNG
LÀM DẠ CHỊU
Tam
thiên tự dạy ta “腹phúc
bụng 膺ưng lòng” (chữ 1779,
1780) nhưng đây chỉ là giảng về nghĩa chứ về từ nguyên thì lại khác.
Bụng là
một từ Việt gốc Hán, bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ [𩪌] mà âm Hán Việt là
phụng vì thiết âm của nó là “phòng dụng thiết” [房用切], như đã cho trong Tập vận. Nhưng âm xưa (Cổ
Hán Việt) của chữ phòng [房]
là buồng nên theo đó âm xưa của [𩪌] lại là bụng vì “b[uồng]+[d]ụng = bụng. Hiện
tượng “B xưa hơn PH” đã được Vương Lực chính thức chứng minh từ năm 1948 tại
thiên Hán Việt ngữ nghiên cứu (in trong Hán ngữ sử luận văn tập, Khoa học xuất
bản xã, Bắc Kinh, 1958, tr.209 - 406). Còn nghĩa nữa của [𩪌] là “ngực” (hung dã
[匈也]), như Ngọc thiên đã
giảng (dẫn theo Hán ngữ đại tự điển). Ngực liền với bụng nên việc chuyển nghĩa
từ “ngực” sang “bụng” không phải là chuyện tối kiêng kỵ.
Làm thì
có liên quan về nguồn gốc với chữ lãm [攬], mà nghĩa gốc quen thuộc là “cầm, nắm”. Hán ngữ đại tự
điển (Thành Đô, 1993) đã ghi cho nó 7 cái nghĩa cụ thể nhưng riêng Văn Tân thì
lại còn đối dịch nó là “làm” trong Từ điển Trung Việt (NXB Sự thật, 1956).
Dĩ
nhiên Văn Tân có cái lý của ông vì cái nghĩa “làm” của lãm [攬] nằm ngay trong ngữ
vị từ lãm công [攬工],
thường được giảng là “tố trường công” [做長工], nghĩa là “làm thuê dài hạn”. Nếu có người bẻ rằng lãm công
[攬工] chỉ thuộc về phương
ngữ chứ không phải là một đơn vị từ vựng chung thì ta lại còn có một ngữ vị từ
“chung” là lãm hoạt [攬活],
có nghĩa là “làm công việc nặng nhọc (để mưu sinh)”. Đằng nào thì cái nghĩa
“làm” cũng đã nằm trong hệ nghĩa của từ lãm [攬]. Nói tóm lại thì làm là một từ Việt gốc
Hán, bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ [攬], có âm Hán Việt là lãm, mà “làm” là cái nghĩa nằm trong
một góc khuất.
Dạ bắt
nguồn ở một từ ghi bằng chữ dã [也], hiện nay chỉ dùng theo lối giả tá như là một hư từ
nhưng cái nghĩa cực kỳ cổ xưa của nó lại là “bộ phận sinh dục của đàn bà”, như
Hứa Thận đã giảng trong Thuyết văn giải tự: “Nữ âm dã. Tượng hình” [女陰也。象形] Đi vào tiếng Việt,
dạ có nghĩa rộng như có thể thấy trong dạ con, bụng dạ, lòng dạ...
Chịu
bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ [遂], mà âm Hán Việt hiện hành là toại, có nghĩa là “hài
lòng, thỏa mãn; thuận theo”. Nhưng âm gốc của [遂] lại là tụy, vì đây là một chữ thuộc vận mục
chí [至]. Thiết âm của nó
trong Quảng vận là “từ túy thiết” [徐醉切]. T[ừ]+[t]úy = tụy (sở dĩ tụy thuộc dấu nặng vì chữ từ
thuộc dấu huyền). Tương quan T « CH giữa tụy và chịu còn có thể thấy qua: - tạc
[笮], dây xoắn bằng lạt
tre « chạc trong thừng chạc; - tán [饡], cho canh vào cơm « chan trong chan canh; - tiệm [漸] trong tiệm tiến «
chậm trong chậm trễ; - tiên [煎],
đun cho cạn « chiên trong chiên xào; - tiết [紲], buộc bằng dây « chít trong chít khăn; -
tiệt[截], cắt đứt « chịt
(làm cho tắc lại);... Về quan hệ I/Y « IU, ta có: - bỉ [鄙] trong khinh bỉ «
bỉu trong dè bỉu;
- bị [被], mắc, dính « bịu
trong bận bịu; - quỵ [跪],
còn có âm khụy, quỳ gối « khuỵu trong khuỵu chân; - trì [持], cầm, giữ « trìu
trong trìu mến; - trụy [墜],
rơi xuống, sa xuống « trĩu trong nặng trĩu...
AN CHI
Nhận xét
Đăng nhận xét