Từ VẢY TÊ TÊ đến GIÃY TÊ TÊ
Từ VẢY TÊ TÊ
đến GIÃY TÊ TÊ
Từ điển 270 con vật của
Nguyễn Ngọc Hải (Hà Nội, 1993) đã viết về con tê tê (ảnh) như sau:
“Còn có tên là xuyên sơn
giáp, con trút, có tới 10 loài. Tê tê chỉ sống ở vùng nhiệt đới châu Phi và
Đông Nam Á, toàn thân và đuôi phủ vảy sừng như ngói lợp, trừ phía bụng. Chúng
sống ở rừng núi đất, chân có móng sắc để đào hang và ngủ trong đó ban ngày. Tê
tê thiếu răng, mồm nhọn, nhưng có lưỡi dài và nước bọt quánh, lưỡi có thể phóng
ra xa để bắt kiến, mối và ong...
Ở VN có thể gặp tê tê ở
khắp các tỉnh miền núi và trung du. Mỗi con tê tê trưởng thành nặng từ 5 - 7
kg. Tê tê đẻ mỗi lứa 1 - 2 con vào mùa xuân. Con mới đẻ có vảy mềm, mắt nhắm
trong 9 -10 ngày. Tê tê là loài có ích, thịt ngon. Vảy tê tê có tác dụng chữa
nhọt, thông sữa, thông tiểu tiện, điều kinh phụ nữ. Mật tê tê dùng chữa bệnh
hen suyễn. Trong đời sống, tê tê mẹ khi gặp nguy hiểm liền ôm con vào lòng rồi
cuộn tròn người lại thành một “quả bóng” bằng vảy sừng cứng rắn bảo vệ con,
khiến cho con thú hung dữ nhất cũng phát ngán mà bỏ đi.
Tê tê bắt mồi rất tài tình
(...) khi gặp đàn kiến đương bò trên đất hay thân cây, tê tê thè lưỡi liên tục
quét dọc theo đường đi của kiến (...). Nó có thể leo lên cây phá tổ ong. Khi
ong lao tới đốt, nó chủ động giương vảy nhử cho ong vào, sau đó cụp vảy lại,
rồi bò xuống đất giũ vảy và ăn ong chết”. (Sđd, tr.154).
Trở lên là phần dẫn ra để
giới thiệu con tê tê và cứ như trên thì liên quan đến con vật này chỉ có thành
ngữ vảy tê tê mà thôi. Còn giãy tê tê thì chẳng có liên quan gì đến nó. Vảy tê
tê là kiểu vảy xếp thành lớp như ngói lợp. Nhưng ở trong nam nhiều người vì
không hiểu được nghĩa gốc của thành ngữ này nên đã đồng hóa từ “vảy” với từ
“giãy” trong “giãy giụa”, vì trước kia người bình dân trong Nam phát âm V và âm
GI như nhau, đồng thời cũng không phân biệt hỏi ngã. Khi vảy bị đồng hóa với
giãy thì trong nhận thức của người miền Nam tê tê cũng trở thành một từ dùng để
miêu tả động tác giãy tương đương với đành đạch trong phương ngữ miền Bắc. Hiện
tượng trên đây được ngữ học gọi là từ nguyên dân gian hoặc từ nguyên thông tục.
Ở đây xin kể thêm một
chuyện vui vui. Trước đây khi chúng tôi lưu ngụ tại H.Duyên Hà, tỉnh Thái Bình,
có lần cậu con trai của chủ nhà đi làm thủy lợi ngắn hạn đã nói với tôi như
sau: “Đi có mấy ngày, em chẳng cần ba lô, bốn bị gì cả, anh ạ!”. Trong nhận
thức của cậu ta thì ba ở đây là số từ còn lô là một danh từ cùng trường nghĩa
với những rương hòm, tay nải, va li... Vì vậy cậu ta mới ghép thêm bốn để đối
với ba và bị để đối với lô mà tạo ra thành ngữ độc đáo cùng kiểu với năm cha ba
mẹ, năm châu bốn biển, ba đầu sáu tay... Có ngờ đâu rằng ba lô là một từ phiên
âm từ tiếng Pháp ballot, rằng ở đây, ba và lô chỉ là những âm tiết vô nghĩa.
AN CHI
Nhận xét
Đăng nhận xét