NGỰA CU & MẤY CHỮ VẦN U
NGỰA CU
& MẤY CHỮ VẦN U
Một số từ hoặc hình vị nay
đã đọc thành 'câu' thì hồi giữa thế kỷ 17, thậm chí đến cuối thế kỷ 18, vẫn còn
đọc là cu.
Từ điển Annam - Bồ Đào Nha
- Latinh (Roma, 1651) của A.de Rhodes còn ghi chếm cu thay vì chấm câu, cu lan
thay vì câu lan (lơn), bồ cu thay vì bồ câu. Nhưng đến Tự vị Annam - Latinh
(1772 - 1773) của Pierre Pigneaux de Béhaine thì đã thấy ghi chấm câu, bồ câu,
câu lơn, chứ không còn ghi “cu” cho những trường hợp này nữa. Riêng chữ câu
trong bạch câu quá khích thì vẫn còn được ghi là bạch cu.
Cứ như trên thì trong những
trường hợp này, u xưa hơn âu. Tru, trù trong tiếng Nghệ Tĩnh là âm xưa của
trâu, trầu trong tiếng Việt hiện nay. Bu trong ruồi bu kiến đậu của tiếng Nam
bộ là âm xưa của bâu trong tiếng miền Bắc. Đặc biệt đậu của cả hai miền thì chữ
Hán là [逗], mà âm cực xưa là… đụ vì nó thuộc vận bộ ngụ [遇],
nay đã đọc thành ngộ. Với cái âm cực xưa này, và với cái nghĩa thô tục vẫn
thông dụng ở trong Nam để chỉ việc “hành sự” của nam đối với nữ, thì đụ đích
thị là một từ Việt gốc Hán, mà nghĩa hữu quan là “vật khớp với nhau” (nghĩa 2),
“đâm thủng, xuyên qua” (nghĩa 6), như đã cho trong Hán ngữ đại tự điển (Thành
Đô, 1993).
Cu trong ngựa cu cũng chính
là cu trong bạch cu, nay đã đọc thành câu, chữ Hán là [駒],
có nghĩa là: 1. ngựa non mà khỏe; 2. động vật còn non tuổi; 3. còn non tuổi nói
chung. Trên đây là những nghĩa đã cho trong Hán ngữ đại tự điển (đã dẫn) và
chúng tôi đã ghi đúng theo thứ tự đã cho trong quyển từ điển này. Nhưng đây
thực ra chỉ là một thứ tự ngược chiều vì đúng ra thì phải là: 1. còn non tuổi;
2. động vật còn non tuổi; 3. ngựa non mà khỏe. Sở dĩ nói đây là một thứ tự
ngược chiều là vì chữ câu [駒] bộ mã [馬]
chỉ là trường hợp ứng dụng nghĩa 2 (động vật còn non tuổi) cho loài ngựa (còn
nghĩa 2 thì chỉ là ứng dụng từ nghĩa 1) mà thôi. Chữ này còn có một số đồng
nguyên tự chỉ những con vật non tuổi thuộc giống khác, như dê, bò (hoặc trâu),
gấu, hổ, mà Vương Lực đã nêu trong Đồng nguyên tự điển (Bắc Kinh, 1997, tr.182,
ảnh) và chim, lợn rồi cả người nữa, như Lưu Quân Kiệt đã bổ sung trong Đồng
nguyên tự điển bổ (Bắc Kinh, 1999, tr.65).
Vậy, cu trong ngựa cu chính
là âm xưa của chữ câu trong bạch câu quá khích, còn được bảo lưu trong phương
ngữ Nam bộ. Ngựa cu vốn có nghĩa là ngựa non mà khỏe, về sau đã chuyển nghĩa
một cách “phóng khoáng” để chỉ một giống ngựa vóc nhỏ, bất kể cá thể được nói
đến còn non hay đã già. Nếu không phải vì một sự nhạy cảm mà Cao Xuân Hạo từng
nói đến (*) thì có lẽ là dân VN đầu thế kỷ 21 vẫn còn nói bạch cu chứ không
phải bạch câu vì thực ra câu [駒] là một chữ thuộc vận bộ
ngu [虞], như đã cho rõ ràng trong tự thư và vận thư.
AN CHI
(*) Cao Xuân Hạo đã viết như sau: “Người Việt nhận
diện ra các tiếng tục ngay cả khi không hề có calembour (một kiểu chơi chữ bằng
hiện tượng đồng âm - A.C) và trong những ngữ cảnh ít thuận lợi cho việc nhận
diện nhất như trong các tên riêng ngoại quốc đa âm tiết chẳng hạn. Những tiếng
như cu, đít, ghe ngay trong bối cảnh này cũng bị hiểu như tiếng tục và do đó
thường được ghi trẹ đi để tránh cách hiểu đó” (“Về cương vị ngôn ngữ học của
tiếng”, Ngôn ngữ, số 2-1985, tr.28).
Nhận xét
Đăng nhận xét