MÂY NHÀN thành MÂY NGÀN
MÂY NHÀN
thành MÂY NGÀN
thành MÂY NGÀN
Vita (nhà giáo, nhà văn -
TN) có tiểu thuyết Mây ngàn (xuất bản năm 1936 - TN) , Đoàn Chuẩn - Từ Linh có
nhạc phẩm Gửi gió cho mây ngàn bay, Vũ Thành An có Mây ngàn lối xưa còn Nguyễn
Du thì đã có hạc nội mây ngàn trong câu 2.402 của Truyện Kiều (theo hầu hết các
bản Kiều đã có).
Về bốn chữ này của Nguyễn
Du, Tản Đà giảng là: “Con hạc ở nội, đám mây ở ngàn, nói là tung tích vô định”.
Trương Vĩnh Ký giảng là: “Như hạc ngoài đồng, như mây trên núi, biết đâu mà
tìm”. Đào Duy Anh giảng: “Hạc ở ngoài đồng, biết là bay đi đâu, mây ở trên
ngàn, biết là bay về đâu, ý nói tung tích không định”.
Xin thưa ngay rằng mây ngàn
đúng ra là mây nhàn, như đã khắc in tại quyển Kim Vân Kiều truyện do Duy Minh
Thị đưa in bên Quảng Đông (Trung Quốc), gọi tắt là bản DMT 1872. Cách đây hơn
10 năm, nhà Kiều học Thế Anh đã có bài Hạc nội mây ngàn hay Hạc nội mây nhàn,
đăng trên trang VUSTA (Liên hiệp Các hội khoa học và kỹ thuật VN) ngày
4.11.2008. Ông viết: “Quả thật Hạc nội mây ngàn rất quen thuộc và dễ chấp nhận
đối với mọi người, còn Hạc nội mây nhàn nghe qua có vẻ lạ tai, nhưng trên thực
tế theo tra cứu và tìm hiểu của chúng tôi thì đây chính là điển tích và là câu
thành ngữ của Trung Quốc có nguyên văn là Nhàn vân dã hạc, chắc Nguyễn Du đã
tiếp thu và vận dụng nó theo dạng sơ khai như trong bản DMT 1872, sau đó đã
được chữa lại là Hạc nội mây ngàn và mọi người đều cảm nhận được ý nghĩa một
cách đơn giản là “không biết được tung tích ở nơi nào, ví như loài hạc ở giữa
đồng và đám mây ở trên ngàn, trên núi” mà không cần tìm đến nguồn gốc sâu xa
của điển cố. Câu thành ngữ Nhàn vân dã hạc đã được ghi nhận trong các sách tra
cứu của Trung Quốc như Cổ Hán ngữ đại từ điển (Thượng Hải từ thư xuất bản xã
2002), Hán ngữ điển cố từ điển (Hán ngữ đại từ điển xuất bản xã 1998), Thành
ngữ thục ngữ từ điển (Thương vụ ấn thư quán xuất bản 1992), Hán ngữ thành ngữ
đại từ điển (Trung Hoa thư cục xuất bản phát hành 2002)…, đại ý là tự do thoải
mái, không bị ràng buộc, câu thúc”.
Ông Thế Anh đưa dẫn
chứng:“Trong Đường thi cổ súy có câu thơ của Lý Quần Ngọc tiễn Tần Luyện Sư như
sau:
Nhàn vân bất hệ đông tây ảnh
Dã hạc ninh tri khứ trụ tâm
(Mây nhàn lơ lửng đông tây
Hạc đồng đã biết rằng bay hay
đừng)
Chúng tôi mạn phép nêu thêm
một dẫn chứng từ tiểu thuyết Hồng lâu mộng của Tào Tuyết Cần. Hồi 120 của tác
phẩm này có câu: “Độc hữu Diệu Ngọc như nhàn vân dã hạc, vô câu vô thúc” nghĩa
là: “Chỉ riêng có nàng Diệu Ngọc [mới] như mây nhàn hạc nội, không ràng không
buộc”.
Ngày nay, hai tiếng mây
ngàn đã trở nên thông dụng mà không có cách nào bắt nó phải “trở về nguồn” - vì
cũng không cần thiết - nhưng với bản DMT 1872 thì câu 2.402 (ảnh) chắc chắn
phải là Biết đâu hạc nội mây nhàn là đâu chứ dứt khoát không thể nào khác.
AN CHI
Nhận xét
Đăng nhận xét