XE ĐÒ, QUÁ GIANG, CON LƯƠN và LỜI CỦA NƯỚC
XE ĐÒ, QUÁ GIANG, CON LƯƠN
và LỜI CỦA NƯỚC
Đối với những cư dân nông nghiệp vùng nhiệt đới với khí hậu nắng nóng,
mưa nhiều, độ ẩm cao như ở Việt Nam - nơi mà canh tác đất đai chủ yếu là trồng
lúa nước, nước chi phối sâu sắc đến toàn bộ đời sống của người dân Việt.
Với người Việt, hình ảnh nước được
lưu nhận, cố định trong ngôn ngữ dân tộc như một ký mã có thể lý giải được về mặt
văn hóa, tiếp nguồn cho đạo lý của dân tộc để mang lại “hồn nước” thấm đẫm trong dòng chảy văn hóa của lịch sử.
Cách
lập ý từ hình ảnh sông nước
Hình ảnh sông nước ăn sâu vào
tâm khảm người Việt đến mức “nước” là
danh từ với nghĩa ban đầu để chỉ chất lỏng, nhưng với người Việt bằng phương
pháp hoán dụ đã chuyển “quê hương”, “tổ quốc”, “lãnh thổ” thành từ đồng nghĩa với
“nước” - để chỉ “tổ quốc”, người Việt chỉ cần chữ “nước” là đủ - một hiện tượng
hiếm thấy trên thế giới.
Người Trung Hoa có chữ “quốc”
mang hình dáng vuông vắn, tượng hình một vùng đất; người Pháp dùng từ “nation”
nhấn mạnh đến yếu tố “nơi tôi sinh ra”. Hoàn toàn không giống cách lập ý của
người Việt.
Trong các quy luật hình thành
ngôn ngữ, có một quy luật xuất phát từ những yếu tố sông nước hoặc những hoạt động
trên sông nước, người Việt hay nói: anh
ta ăn nói trôi chảy, hai đứa nhìn nhau đắm đuối, thời
gian trôi nhanh, thân phận bọt bèo, mặt trời lặn, suối tóc, làn
sóng đấu tranh, lặn lội đến thăm nhau, làm việc ngập đầu, chìm
đắm trong suy tư, tràn trề hạnh phúc...
Đi nhờ xe một đoạn gọi là quá giang (qua sông), đi xe
khách liên tỉnh thì người Nam Bộ gọi là xe đò,
vách ngăn cách trên đường bộ thì gọi là con
lươn (con vật sống dưới nước), rẻ
như bèo (thực vật sống dưới nước)...
Nước đã ghi dấu ấn đậm nét trong
tâm thức người Việt thông qua những câu ca dao - tục ngữ. Có nhiều công trình
nghiên cứu về thiên nhiên sông nước trong ca dao - tục ngữ.
Các nhà nghiên cứu đã thống kê
chỉ riêng trong ca dao, dân ca Nam Bộ có đến 48 hình tượng thiên nhiên liên
quan đến sông nước, riêng nước xuất hiện 417 lần.
Ví như: nói về lòng biết
ơn: uống nước nhớ nguồn; về nghị
lực ý chí: chớ thấy sóng cả mà ngã
tay chèo; về tình đoàn kết: thuận
vợ thuận chồng tát biển đông cũng cạn; về tính tiết kiệm: buôn tàu buôn bè không bằng ăn dè hà tiện;
về cuộc đời: sông có khúc, người có
lúc; về quan hệ vợ chồng, tình yêu nam nữ: thuyền theo lái, gái theo chồng...
Biểu
tượng sinh thành
Đặc trưng sông nước này cũng ghi
dấu trong các địa danh trên đất Việt như:
Bến Nghé, Bến Thành, Bến Dược, An Giang, Hậu Giang, Hà Tiên, Hà Tĩnh, Cửa Đại,
Cửa Lò, Hải Dương, Hải Hậu, Hải Ninh... Tính riêng trên địa bàn của TP.HCM
cũng đã có tới 1.319 địa danh là tên sông rạch.
Thật thú vị thay, nước còn được
xem là biểu tượng sinh thành của dân tộc.
Một linh vật của dân tộc Việt lại
có nguồn gốc từ nước, đó chính là hình tượng “con Rồng cháu Tiên” qua truyền thuyết “Lạc Long Quân, Âu Cơ và cái bọc trăm trứng”. Rõ ràng nước trong trường
hợp này được hiểu là nơi mà sự sống nguyên khai nảy sinh.
Tiếng Việt còn giữ lại một thành
ngữ văn chương điển hình cho biểu tượng nước: “thuở còn trứng nước” chỉ đứa trẻ sơ sinh, có một ý nghĩa hồng
hoang, khởi thủy.
Từ lúc còn “trứng nước” đến khi lìa đời, người Việt cũng hình dung về đến “thế
giới bên kia” là một vùng sông nước - “về
nơi chín suối”, “về với suối vàng”.
Và cũng không quên phương tiện
tiễn đưa người mất - quan tài được mô phỏng hình là chiếc thuyền rồng (phương tiện
vận chuyển trên nước) với nghi lễ chèo đưa linh trong phong tục tang ma truyền
thống.
Như vậy, rõ ràng ngôn ngữ “tiếng nước tôi” đã hiển lộ rõ dấu ấn đậm
nét của nước trong việc ứng xử, giao tiếp lời ăn tiếng nói hằng ngày, biết khôn
ngoan “gạn đục khơi trong”, biết
mạnh mẽ, bền bỉ với “nước chảy đá
mòn”, biết mềm dẻo, linh hoạt, uyển chuyển như nước để “ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”…, tạo nên
nét đặc trưng của cư dân nông nghiệp từ một vùng sông nước mênh mông.
THS NGUYỄN HIẾU TÍN
Nhận xét
Đăng nhận xét