LẠI CHUYỆN CÂU ĐỐI CỦA GS VŨ KHIÊU
LẠI CHUYỆN CÂU ĐỐI
CỦA GS VŨ KHIÊU
Bác Lê Bá Chương (Quảng Xương -
Thanh Hoá) gửi Tuấn Công Thư Phòng bức thư như sau:
“Tuấn
Công thân mến!
Như đã có dịp trao đổi với Tuấn
Công về những băn khoăn thắc mắc của chúng tôi và cũng là những băn khoăn thắc
mắc của nhiều người trong đó có nhiều thân nhân liệt sĩ, các cựu chiến binh, mỗi
lần họ đến viếng nghĩa trang và vào thắp hương tại nhà tưởng niệm các anh hùng
liệt sĩ huyện Quảng Xương.
Những băn khoăn thắc mắc đó là:
không hiểu đôi câu đối này nhằm ca ngợi ai? Rõ ràng là không hề ca ngợi liệt
sĩ! Mà chỉ ca ngợi những người “vào tử ra sinh” trong đó có những kẻ “ham sống
sợ chết”, những kẻ đầu hàng giặc, những kẻ chiêu hồi. Một câu đối như vậy tại
sao lại đặt tại nhà tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ - những người đã anh dũng
hy sinh vì độc lập tự do của Tổ Quốc. Như vậy liệu có “mủi lòng” các liệt sĩ và
thân nhân của họ không?
Chúng tôi đã nhiều lần trao đổi
và trực tiếp đối thoại với các vị lãnh đạo huyện về những sai sót của đôi câu đối,
nhưng kết quả vẫn chìm trong im lặng! Ngày 1/8/2016, thay mặt chi hội thơ Đường
luật huyện Quảng Xương, chúng tôi đã gửi kiến nghị đến thường trực Huyện ủy,
HĐND, UBND huyện Quảng Xương. Sau hơn 1 tháng rưỡi chờ đợi trả lời, đến ngày
16/9/2016, tôi nhận được một phong bì, ngoài phong bì đề “UBND huyện Quảng
Xương kính gửi công dân Lê Bá Chương”
Bên trong phong bì có 2 văn bản
sau:
Văn bản thứ nhất: “Báo cáo về
quá trình sưu tầm đôi câu đối trong nhà tưởng niệm tại nghĩa trang liệt sĩ huyện”.
Nơi nhận là:
- Thường vụ Huyện ủy (để b/c)
- Chủ tịch, các phó chủ tịch UBND huyện (để b/c);
- Lưu LĐ TB &XH.
Văn bản này do phòng Lao động
Thương binh và Xã hội kính báo cáo thường trực UBND huyện. Như vậy, phải chăng
là họ đã gửi nhầm địa chỉ?? (ý bác Chương: bác là người thắc mắc về đôi câu đối,
nhưng lại không được huyện trả lời đích danh - HTC chú thích).
Văn bản thứ hai “Về đôi câu
đối trong nhà tưởng niệm Bác Hồ và các anh hùng liệt sĩ ở nghĩa trang liệt sĩ
huyện Quảng Xương”. Người viết: ký tên Nguyễn Đức Xuân. Lại một lần nữa văn bản
lại gửi nhầm địa chỉ. Văn bản thứ hai này chỉ là ngụy biện vu vơ, thiếu hiểu biết,
cứ như Nguyễn Đức Xuân là tác giả đôi câu đối này vậy. Vì thế cũng không cần bận
tâm và bàn luận làm gì.
Trở lại văn bản thứ nhất, “Phòng
Lao động -Thương binh và Xã hội huyện Quảng Xương” cho biết:
“Phòng Lao động -Thương
binh và Xã hội huyện Quảng Xương đã liên lạc với công ty TNHH Mỹ thuật Hiền
Oanh (La Xuyên – Yên Ninh- Ý Yên- Nam Định) đề nghị Công ty giúp đỡ tìm câu đối,
sau đó công ty đã gửi về đôi câu đối và trao đổi là do Giáo sư Vũ Khiêu viết.
Vào thời điểm đó, phòng Lao động
- Thương binh và Xã hội huyện Quảng Xương cũng đã tìm hiểu câu đối đặt tại
Nghĩa trang liệt sĩ một số nơi khác, thì được biết tại Nghĩa trang liệt sĩ huyện
Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam cũng có khắc một bộ câu đối (có bộ câu đối kèm theo
báo cáo), phòng Lao động Thương binh và Xã hội huyện Duy Xuyên thông báo đây là
bộ câu đối do Giáo sư Vũ Khiêu đề tặng, trong đó có câu đối:
“Vào tử ra sinh vững thế anh hùng trên xứ Quảng
Đội trời đạp đất lừng danh dũng sĩ dưới trời Nam”
Phòng Lao động - Thương
binh và Xã hội huyện Quảng Xương đã báo cáo nội dung đôi câu đối sưu tầm được với
Thường trực Huyện ủy, thường trực HĐND – UBND huyện và đã được chấp nhận cho khắc
để treo tại Nghĩa trang liệt sĩ huyện với nội dung:
“Vào tử ra sinh vững thế anh hùng trên đất Quảng
Đội trời đạp đất lừng danh dũng sỹ dưới trời Nam”
Phải chăng ca ngợi những người
còn sống là sở trường và sức mạnh của giáo sư Vũ Khiêu! Điều đó được thể hiện
qua bộ 3 câu đối mà giáo sư đề tặng huyện Duy Xuyên để đặt tại Nghĩa trang liệt
sĩ huyện. Trong đó có câu:
“Thu hết tinh hoa kim cổ lại
Dựng xây văn hiến nước non này”
Hình như câu này không phải là
câu đối? mà chỉ là một mệnh lệnh, hoặc một lời khuyên răn mà thôi. Một câu đối
mặc dù đã được thông báo là do giáo sư Vũ Khiêu đề tặng huyện Duy Xuyên ấy thế
mà được báo cáo và dễ dàng chấp nhận để đặt tại nghĩa trang liệt sĩ huyện Quảng
Xương mà không cần suy nghĩ liệu có đúng không? Có “đạo văn” không? Chúng tôi
chợt nhớ đến một truyện ngắn của nhà văn Linh Tâm với tựa đề “Kẻ trộm chữ nhà
thờ” mà người dân quê tôi cho đến nay vẫn thường đàm tiếu.
Biết anh là người am hiểu về chữ
nghĩa, câu đối, chúng tôi mong được anh cắt nghĩa chu đáo nội dung và những
câu chuyện xung quanh câu đối này.
Cảm ơn anh nhiều!
T/M. Chi hội thơ Đường luật huyện Quảng Xương
CHI HỘI TRƯỞNG
Lê Bá Chương”
---------------------------------------------------------------------------------
Qua đường bưu điện, Bác Lê Bá
Chương cũng gửi phát nhanh cho tôi:
1.
Bản “Kiến
nghị điều chỉnh một số điểm chưa phù hợp của đôi câu đối đặt tại nghĩa trang liệt
sĩ huyện Quảng Xương” của Lê Bá Chương.
2.
3. Văn bản “Báo cáo về quá trình sưu tầm đôi
câu đối trong nhà tưởng niệm tại Nghĩa trang liệt sĩ huyện” của “Phòng LĐ - TB
& XH” huyện Quảng Xương.
4. Bài viết “Về câu đối trong nhà thờ tưởng niệm
Bác Hồ và các anh hùng liệt sĩ ở Nghĩa trang Liệt sĩ huyện Quảng Xương” của
Nguyên Bí thư Huyện uỷ Quảng Xương (thời kỳ 2005 - 2014).
------------------------------------------------------------------------------------
Thưa bác Lê Bá Chương và bạn đọc!
Thực ra vấn đề này bác Lê Bá
Chương đã gọi điện cho tôi từ dạo tháng 8/2016. Tôi đã có trao đổi vắn tắt với
bác Chương và tưởng như vậy là xong. Tuy nhiên, sau đó, nhiều lần bác Lê Bá
Chương lại gọi điện trao đổi, hẹn đi hẹn lại. Lúc tôi rảnh thì bác lại ra Hà Nội
với cháu, khi bác về thì tôi lại bận. Cuối cùng rồi bác cháu cũng có dịp gặp
nhau. Bác Chương trực tiếp đưa tôi đưa bài phân tích về đôi câu đối nói trên,
cùng một số tài liệu liên quan. Tôi phần vì bận, phần vì không còn hứng thú gì
khi viết về chuyện chữ nghĩa liên quan đến GS Vũ Khiêu nữa (sau khi đã viết 5
bài đăng trên Tuấn Công Thư Phòng). Bởi vậy, một lần nữa tôi chỉ trực tiếp trao
đổi riêng với bác Chương, chứ không viết bài.
Thế nhưng bác Chương với tư cách
là độc giả của TCTP vẫn tha thiết đề nghị tôi viết một bài nhận xét đăng công
khai trên TCTP. Hôm nay, ở cái thế không thể từ chối được, và dù đang rất bận,
nhưng để không phụ lòng bác Lê Bá Chương, cũng là thể hiện sự trân trọng tinh
thần trách nhiệm của bác, tôi xin đưa ra một số ý kiến về đôi câu đối:“Vào tử
ra sinh vững thế anh hùng trên đất Quảng, Đội trời đạp đất lừng danh dũng
sỹ dưới trời Nam” như sau:
1 –
Thành ngữ “Vào sinh ra tử” hay
“Vào tử ra sinh” chỉ là hai dị bản đồng nghĩa, mà Từ điển tiếng Việt (Trung
tâm từ điển học Vietlex) đã giảng: “vào sinh ra tử • xông pha nơi trận mạc
nguy hiểm, luôn cận kề cái chết: “Giấn mình trong áng can qua, Vào sinh ra tử
hoạ là thấy nhau.” (TKiều)”.
Chúng tôi chưa thấy cuốn từ điển tiếng Việt nào thu thập dị bản "Vào tử ra sinh", nhưng trong Hán ngữ có tồn tại các dị bản:
Chúng tôi chưa thấy cuốn từ điển tiếng Việt nào thu thập dị bản "Vào tử ra sinh", nhưng trong Hán ngữ có tồn tại các dị bản:
- Vào sinh ra tử (Nhập
sinh xuất tử - 入生出死)
- Ra tử vào sinh (Xuất
tử nhập sinh - 出死入生).
- Vào tử ra sinh (Nhập
tử xuất sinh 入死出生).
Trong đó, dị bản “Vào tử ra
sinh” 入死出生,
được “Hán điển” (zidic.net) thu thập và giảng là: “形容冒着生命危险 -
Hình dung mạo trước sinh mệnh nguy hiểm”, nghĩa là: hình dung phải đối mặt
với sự hiểm nguy cho tính mệnh.
Như vậy, không phải “Vào sinh ra
tử” mới có nghĩa là xông pha nơi hiểm nguy; còn “Vào tử ra sinh” là hèn
nhát, “ham sống sợ chết”, “những kẻ đầu hàng giặc, những kẻ chiêu hồi” như
lo ngại của bác Lê Bá Chương. Có nghĩa thành ngữ này không được hiểu theo cách
diễn giải: “Vào sinh ra tử” (lúc vào thì sống, lúc ra thì hi sinh [ra tử]); còn
“Vào tử ra sinh” (đáng lẽ phải liều mình [vào tử] thì lại bỏ chạy để bảo toàn mạng
sống [ra sinh]).
2.
Theo tôi, điều đáng nói ở đây là
tác giả đôi câu đối vận dụng thành ngữ “Vào tử ra sinh” để ca ngợi các anh hùng
liệt sĩ không phù hợp. Bởi “Vào sinh ra tử”, hay “Vào tử ra sinh” là nói đến
người đã từng xông pha nơi trận mạc, nhiều lần gặp hiểm nguy, cận kề cái chết,
chứ không phải nói đến người đã chết, đã hi sinh. (Xin đọc lại nội dung giải
thích của Từ điển tiếng Việt và Hán điển).
3.
Thành ngữ “Đội trời đạp đất” mà
tác giả vận dụng cũng rất khiên cưỡng. Bởi “Đội trời đạp đất” (dị bản “Đầu đội
trời, chân đạp đất”), là nói đến lối sống ngang tàng, tự do, phóng túng, hành động
theo lí tưởng, mục đích cá nhân, không chịu sự ràng buộc, sai khiến của bất cứ
ai. Chúng ta hãy xem một cuốn từ điển giải thích thành ngữ “Đội trời đạp đất”:
-“Từ điển tiếng Việt” (Trung tâm từ điển học Vietlex): “đội trời đạp đất •
ví lối sống và hành động hết sức tự do, ngang tàng, không thừa nhận bất cứ một
uy quyền nào trên đời : “Đội trời đạp đất ở đời, Họ Từ, tên Hải, vốn người Việt
Đông” (TKiều)”.
- “Từ điển tiếng Việt” (Văn Tân chủ biên): “đội trời đạp đất • Sống một
cách ngang tàng vùng vẫy. Đội trời đạp đất ở đời, Họ Từ tên Hải vốn người
Việt Đông (K)”.
- “Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam” (Nhóm Vũ Dung - Vũ Thuý Anh - Vũ
Quang Hào): “Đầu đội trời, chân đạp đất [Chân đạp đất, đầu đội trời; Đạp đất đội
trời; Đội trời đạp đất] Đáng bậc hào kiệt ở đời, khí phách ngang tàng, cứng cỏi,
không chịu sống khuất phục. Đội trời đạp đất ở đời, Họ Từ tên Hải vốn người
Việt Đông (Truyện Kiều)”.
Có
thể nói, Nguyễn Du vận dụng rất sát đúng thành ngữ “đội trời đạp đất” khi nói về
nhân vật Từ Hải - người anh hùng “Chọc trời khuấy nước mặc dầu, Dọc ngang nào
biết trên đầu có ai”. Hay những vị như “Anh hùng Lương Sơn Bạc” cũng là những
nhân vật được xem là “Đội trời đạp đất”. Có nghĩa họ là những cá nhân, anh hùng
xuất chúng nổi lên cát cứ chống lại triều đình. Trong mắt người dân thường bị
áp bức, bóc lột, thì những người dám đứng lên lập riêng một “giang san” là những
anh hùng, hào kiệt, nhưng với triều đình, họ chỉ là “giặc cỏ”, “lục lâm thảo khấu”
không hơn, không kém. Và cuối cùng, những vị “Đầu đội trời, chân đạp đất” này
thường bị thu phục hoặc chịu thất bại. Trong khi đó, anh hùng liệt sĩ là những
người có danh nghĩa chính thống, chiến đấu, hi sinh vì Tổ quốc, nhân dân. Họ sống,
chiến đấu có tập thể, có chỉ huy, tổ chức kỉ luật rất chặt chẽ, chứ đâu được
phép ngang tàng, tự do phóng túng theo mục đích, lí tưởng cá nhân như các anh
hùng hảo hán “đội trời đạp đất”?
[Đáng chú ý, GS Vũ Khiêu cũng đã từng dùng thành ngữ “Đạp đất đội trời” khi
biên soạn “Câu đối tưởng niệm đồng chí Lê Đức Thọ nhân 100 năm ngày sinh (1911
- 2011)” như sau: “Mười lăm tuổi ra đi, đạp đất đội trời, nặng bầu nhiệt huyết,
trong học sinh, hăng hái biểu tình, xung phong bãi khoá...” (Tư liệu trên FB của
Nhà báo Kiều Mai Sơn - Báo Nông nghiệp Việt Nam)].
4.
Như vậy, có thể thấy GS Vũ Khiêu
vận dụng hai thành ngữ làm mệnh đề chính cho đôi câu đối, nhưng cả hai thành ngữ
đều không hợp, nếu không nói là sai lạc khi khắc hoạ hình tượng các anh hùng liệt
sĩ đã hi sinh vì Tổ quốc.
Hãy tưởng tượng, nếu đưa đôi câu đối “Vào tử ra sinh vững thế anh hùng
trên đất Quảng, Đội trời đạp đất lừng danh dũng sỹ dưới trời Nam” treo
trong phòng truyền thống của Hội cựu chiến binh (xã, huyện, tỉnh) nào
đó, người ta sẽ thấy nội dung không hề “sái”, ngược lại, nó có vẻ hợp hơn là đặt
trong nghĩa trang liệt sĩ. Vì toát lên trong ý tứ của hai vế đối là nói về những
người từng “vào sinh ra tử”, kinh qua trận mạc rồi trở về sau cuộc chiến, chứ
không phải những người đã vĩnh viễn nằm lại ngoài chiến trường.
Như vậy, có nghĩa GS Vũ Khiêu đã soạn một đôi câu đối có nội dung ca ngợi cựu
chiến binh để đem thờ các anh hùng liệt sĩ? Theo tôi, căn cứ vào chữ nghĩa thì
vấn đề đúng là như là vậy.
Về luật đối, tôi đồng ý với ý kiến bác Lê Bác Chương: vế sau lặp lại hai chữ "trời", thế nhưng vế trước lại không có chữ đối lại tương ứng là "không chỉnh".
Về luật đối, tôi đồng ý với ý kiến bác Lê Bác Chương: vế sau lặp lại hai chữ "trời", thế nhưng vế trước lại không có chữ đối lại tương ứng là "không chỉnh".
Thưa bác Lê Bá Chương và bạn đọc.
Đôi câu đối “Vào tử ra sinh vững thế anh hùng trên đất Quảng, Đội trời
đạp đất lừng danh dũng sỹ dưới trời Nam” khiến tôi liên tưởng đến một đôi
câu đối khác [mà trong bài viết “Về đôi câu đối Thủ tướng tặng GS Vũ Khiêu”,
tôi có nói là hợp với “cung bái (kính viếng) hơn là cung hạ (kính mừng)”]. Đó
là đôi “Sơn hà linh khí tại, Kim cổ nhất hiền nhân”. Đôi “câu đối” này do Thủ tưởng
Nguyễn Tấn Dũng tặng GS Vũ Khiêu nhân dịp GS mừng thọ 100 tuổi. (Trong bài “Thửđi
tìm tác giả đôi câu đối Thủ tướng tặng GS Vũ Khiêu”, tôi đã chứng minh giả
thuyết GS Vũ Khiêu chính là tác giả đôi câu đối. Có nghĩa GS biên soạn để Thủ
tướng tặng lại cho chính mình).
Sở dĩ tôi liên tưởng vì thấy chuyện kỳ quặc: Câu đối “kính mừng” mà nội dung cứ
như là “kính viếng”; còn câu đối thờ anh hùng liệt sĩ thì nội dung lại cứ như
là ca tụng những người lính trở về sau cuộc chiến vậy!
Về đôi câu đối của GS Vũ Khiêu:“Thu hết tinh hoa kim cổ lại, Dựng xây văn
hiến nước non này” tôi đã có dịp nói đến trong bài “Về
một số đôi câu đối GS Vũ Khiêu biên soạn cho Thanh Hoá” (đăng làm hai kì).
Trong đó, tôi đã dẫn chứng cùng một đôi câu đối này, nhưng GS Vũ Khiêu đem
“cho” rất nhiều nơi: từ đền thờ Hồ Chủ tịch, đến nhà mẫu giáo, từ khu đô thị mới
cho đến đền thờ các anh hùng liệt sĩ...từ Bắc chí Nam, từ trẻ đến già, người chết
lẫn người sống, thôi thì đủ cả. Và nội dung của nó hay ho đến mức nào, tôi cũng
đã phân tích khá kĩ rồi. Kính bác Lê Bá Chương và bạn tham khảo theo đường link
tôi đã dẫn.
Còn chuyện huyện Quảng Xương “sưu tầm” câu đối ở nghĩa trang liệt sĩ huyện Duy
Xuyên, tỉnh Quảng Nam, rồi đổi “xứ Quảng” (Quảng Nam) thành “đất Quảng” (Quảng
Xương), theo tôi là không nên, nếu không nói là sai. (Cho dù thực tế nội dung
đôi câu đối đem gán ghép vào bất cứ vùng đất nào trên đất nước Việt Nam đều “hợp”).
Một việc quan trọng như vậy dĩ nhiên cũng không nên nhờ cậy vào một cơ sở Mỹ
nghệ, chỉ chuyên về đục đẽo, sơn thếp. Tuy nhiên, công bằng mà nói đây cũng là
tình trạng chung về chữ nghĩa ở các đình chùa miếu mạo hiện nay. Nghĩa là hoành
phi, câu đối là hạng mục, nội dung quan trọng của một công trình tưởng niệm, hoặc
di tích lịch sử, nhưng thường không được dự trù kinh phí hoặc xem là hạng mục
chính để đặt người sáng tác, biên soạn. Thế nên mới có chuyện khoán trắng cho
thợ mộc, thợ nề sao chép, gán ghép lung tung làm hỏng cả chữ lẫn nghĩa, gây bao
cảnh chướng tai gai mắt.
Chuyện Phòng LĐTB và XH huyện Quảng Xương đem tên tuổi GS Vũ Khiêu ra giống như
một sự đảm bảo cho nội dung đôi câu đối (nguyên văn qua điện thoại, bác Chương
gọi là “đem ngáo ộp ra doạ tôi”) cũng không có gì đáng ngạc nhiên. Vì câu đối của
GS Vũ Khiêu dở như thế nào, và càng ngày càng dở ra sao, không ít người biết
rõ. Thế nhưng cũng không ít người vẫn sùng bái, đến “xin” câu đối như xin lộc
trời, một thứ lộc “trăm năm mới có”. Thế nên mới có chuyện GS Vũ Khiêu “sản xuất”
không kịp, phải xào xáo, sao chép nội dung câu đối của chính mình để “cho” khắp
trong Nam ngoài Bắc; rồi “dân gian” lại “xào lại” nhân lên thêm nữa, khiến cho
chữ nghĩa ở “xứ Quảng” ( Nam), bỗng chốc biến thành “đất Quảng” (Xương) là thế.
Xin có đôi lời nhận xét gửi tới bác Lê Bá Chương cùng bạn đọc
TCTP.
Chúc bác Lê Bác Chương mạnh khoẻ, sáng tác nhiều bài thơ vui giống hôm
nào đến chơi thăm Tuấn Công Thư phòng bác đã ngâm nga:
“CẢNH ÔNG GIÀ
Bà đi thăm cháu tận nơi xa
Giao lại mình tôi chức quản nhà
Sáng sáng lo mồi ba ả vịt
Chiều chiều liệu bữa bốn o gà
Cơm ăn hai bận, cơm lưng bát,
Nước uống vài lần, nước cả ca
Quanh quẩn ra vào thơ với thẩn.
Ai ngưởi thấu hiểu cảnh ông
già”.
HOÀNG TUẤN CÔNG
26/11/2016
Nhận xét
Đăng nhận xét