CÁCH VIẾT ĐÚNG ĐỊA DANH ĐẮC LẮC
CẦN HIỂU ĐÚNG VÀ THỐNG NHẤT
CÁCH VIẾT ĐỊA DANH ĐẮC LẮC
Tóm tắt:
Địa danh ẩn chứa nhiều giá trị
ngôn ngữ, bản sắc văn hóa của một vùng đất, một tộc người. Hiểu đúng và thống
nhất cách viết địa danh trên cơ sở khoa học là thể hiện trình độ nhận thức về
văn hóa và ngôn ngữ. Địa danh Đắc Lắc hiện nay tên gọi không thay đổi nhưng có
nhiều cách hiểu và cách viết khác nhau. Bài viết đã phân tích các cách viết địa
danh Đắc Lắc và dựa trên cơ sở khoa học để đưa ra các quan điểm về cách viết thống
nhất địa danh này.
(TS. Nguyễn Minh Hoạt, "Những
vấn đề chính tả tiếng Việt hiện nay", 2014, tr. 325-334)
1.
Địa danh là tên gọi những đối tượng
địa lí tự nhiên và địa lí do con người kiến tạo. Nơi đó ẩn chứa nhiều giá
trị ngôn ngữ, bản sắc văn hóa của một vùng đất, một tộc người trong từng thời kỳ
lịch sử. Vì vậy, hiểu đúng địa danh và thống nhất cách viết địa danh trên cơ sở
khoa học là thể hiện trình độ nhận thức về văn hóa và ngôn ngữ của con người
khi tiếp xúc với các địa danh ấy.
Nghiên cứu địa danh có nguồn gốc
từ ngôn ngữ bản địa ở Tây Nguyên, chúng tôi thấy nhiều địa danh cần phải hiểu
đúng và có cách viết thống nhất. Cụ thể địa danh Đắc Lắc (trong bài
viết này chúng tôi tạm thời dùng chữ Đắc Lắc theo phiên âm tiếng Việt) hiện nay
tên gọi không thay đổi nhưng ít nhất có hơn 15 cách viết trên các phương tiện
thông tin đại chúng, như: Darlac, Đắc Lắc, ĐắkLắk, Đắk Lắk, Đăk Lăk,
Dak Lak, Đác Lắc, Đak Lak, Đăk Lắc, Dak Lắk, Dak Lăk, Dăk
Lăk, Đăc Lăk, Đắc lak, Đắc Lắk,... Vì vậy với địa danh này cần hiểu
thế nào cho đúng và nên thống nhất cách viết thế nào cho phù hợp để đáp ứng nhu
cầu của nhiều người đang quan tâm.
Địa danh Đắc Lắc, thời Pháp thuộc
và thời Việt Nam Cộng hòa, viết là Darlac. Sau 1975 (khoảng 1975-1990),
theo chủ trương Việt hóa tối đa, tên các tỉnh được ghi là Gia Lai - Công
Tum, Đắc Lắc, tp Plây Cu, v.v... Về sau theo cách viết chấp nhận một số âm
tiết không có trong tiếng Việt để phản ảnh đúng hơn cách phát âm của ngôn ngữ
người thiểu số, vì thế có các tỉnh Kon Tum, Đắk Lắk, tp
Pleiku,… riêng Đắc Lắc có nhiều cách viết.
Đắc Lắc được viết là Đắk
Lắk, theo nhiều văn bản hành chính của tỉnh này và các báo Tuổi Trẻ, Thanh
Niên, Người Lao động, Công an Nhân dân và Chương trình Dự báo Thời tiết của
Đài Truyền hình Việt Nam (VTV1, VTV3). Trang Bách khoa Toàn thư mở Wikipedia
cũng viết Đắk Lắk và có chú giải: Đắk Lắk, Darlac hay Đắc
Lắc (theo tiếng Ê Đê: Đăk = nước; Lăk = hồ) (?). Trang tin điện tử Chính
phủ Việt Nam, chọn mục Bản đồ hành chính, sau đó chọn tỉnh sẽ thấy là Đắk
Lắk. Địa chỉ của UBND tỉnh có cách viết Đắk Lắk. Bản đồ hành
chính CHXHCN Việt Nam, tỷ lệ 1:2.200.000 của Nxb Bản đồ (thuộc Bộ Tài nguyên và
Môi trường), in tháng 1 năm 2005, trong đó ghi tên các tỉnh Đắk Lắk, Đắk
Nông, thị trấn M'Đrắk, hồ Lắk. Công báo có đăng Nghị
quyết 22/2003/QH11 ngày 26/11/2003 của Quốc hội về việc chia tỉnh, trong đó có
chia Đắk Lắk thành 2 tỉnh: Đắk Lắk và Đắk Nông).
Ngoài ra, các cơ quan, đơn vị
còn có nhiều cách viết khác, như: cơ quan của Đảng bộ Đảng Cộng sản việt Nam
(báo Dak Lak) viết là Dak Lak; Báo Nhân Dân viết Đác Lắc (bên cạnh
đó còn có Đác Nông); Báo Tiền Phong, Sài Gòn Giải phóng, Dân Trí… viết Đắc
Lắc; ‘’Từ điển Tiếng Việt’’ của Viện Ngôn ngữ học (Nxb Đà Nẵng, Trung tâm Từ điển
học, 2006) tr. 1176 và 1181 viết Đăk Lăk (cũng như trang 1183 viết tỉnh Đăk
Nông). Viết Đăk Lăk theo ‘’Từ điển Tiếng Việt’’ có các Báo và trang
Web, như: Báo Pháp Luật TP Hồ Chí Minh, Công An TP Hồ Chí Minh, VietNamNet,
VnExpress.net, VTC New, hoinhavanvietnam.vn. Trong khi đó, trang chủ của
Quốc hội Việt Nam, phần ‘’Danh sách Đại biểu Quốc hội’’ liệt kê tỉnh Đak
Lak;Tên gọi theo Chính phủ định ra, khi liệt kê các tỉnh là: Tỉnh Đăk
Lăk; Tên gọi theo Chính phủ định ra khi liệt kê cụ thể về tỉnh là: Tỉnh Đăk
Lắc; Trong công trình nghiên cứu [5] của Đoàn Văn Phúc có ghi
là Dak Lăk; tài liệu [6] của Đoàn Văn Phúc và Tạ Văn Thông do UBND tỉnh
Đắc Lắc và Viện Ngôn ngữ học phát hành cũng ghi là Dak Lăk.
Thậm chí trong một văn bản của
cùng một cơ quan cũng sử dụng nhiều cách viết tên tỉnh khác nhau. Sự lộn xộn
này nhiều lúc khiến cho người nghiêm túc, cẩn trọng khi đọc các văn bản thấy
khó chịu... Vì vậy phải thống nhất cách viết tên tỉnh Đắc Lắc được đặt ra như
là một yêu cầu tất yếu. Đó cũng là lý do để ngày 23.1.2007, UBND tỉnh Đắc Lắc
ra Thông báo số 239/UBND-TH: yêu cầu các sở, ban, ngành từ nay trong các
văn bản khi viết tên tỉnh Đắc Lắc thống nhất một cách viết là: ĐắkLắk (ĐẮKLẮK). Nhưng
thực ra các văn bản hành chính của tỉnh thường viết Đắk Lắk (hai chữ Đắk và Lắk tách
rời ra). Thế nhưng, cách viết tên tỉnh Đắc Lắc theo quy định trên đây đã bị nhiều
người có hiểu biết về chữ viết chưa đồng tình. Dường như UBND tỉnh Đắc Lắc chưa
dựa vào cơ sở khoa học về ngôn ngữ để ban hành thông báo này, vì thế, nó chưa
có tính thuyết phục.
2.
Qua tìm hiểu và nghiên cứu,
chúng tôi thấy địa danh Đắc Lắc lúc đầu có tên là Darlac, ngay từ
02/11/1899 Toàn quyền Đông Dương đặt tên đơn vị hành chính ‘’một tỉnh tự
chủ có tên là tỉnh Darlac’’ mà nhiệm sở hành chính là Bản Đôn [dẫn theo 2,
tr.36]. Đến ngày 22/11/1904 trong Nghị định của Toàn quyền Đông Dương có
ghi: ‘’Thành lập tại miền Tây các tỉnh Phú Yên, Khánh Hòa đặt dưới quyền
hành chính và chính trị của Khâm sứ
Trung Kỳ một tỉnh tên là Darlac
– tỉnh lỵ là Buôn Ma Thuột’’ [dẫn theo 2, tr.37].
Lý giải Darlac, theo
A.Monfleur trong tác phẩm ‘’Province du Darlac (Monfleur (1931), Monographie de
la province du Darlac)’’: ‘’Đây là kết quả của một sự nhầm lẫn đã biến đổi
ngôn ngữ từ Dak Lăk thành Darlac; sự thật đây là tên của một thung lũng nhỏ được
đặc biệt chú ý bởi nó nằm giữa một vùng rừng núi, trong đó có một cái hồ ở vị
trí trung tâm’’ (dịch từ bản tiếng Pháp) [dẫn theo 2, tr.36-37]. Trong tiếng
pháp dar không có nghĩa, theo nhận định của chúng
tôi dar mà người Pháp sử dụng, thực chất do người Pháp mô phỏng
theo âm thanh của ngôn ngữ người bản địa, dar là sự biến âm từ dak (tiếng
M’nông, dịch theo nghĩa tiếng Việt là nước); lac trong tiếng
Pháp dịch theo nghĩa tiếng Việt là hồ (hồ nước). Như vậy, người Pháp
dùng Darlac (dar: nước; lac: hồ) có thể hiểu
là: hồ nước.
Xét về mặt ngữ nguyên, chúng tôi
tán thành với cách viết Dak Lăk như trong các công trình nghiên cứu của
Đoàn Văn Phúc, Tạ Văn Thông và một số luận án tiến sĩ của các tác giả Trần Văn
Dũng (2005), Nguyễn Minh Hoạt (2012), Đoàn Thị Tâm (2012)... Cách viết này có
thể giải thích như sau: Dak theo tài liệu [9, tr.51] có giải
thích: dak là nước, suối. Trong tài liệu [8, tr.413]
đã sắp xếp từ nước (tiếng Việt) ứng với dak (tiếng M’nông).
Theo đó, các từ ghép có yếu tố nước đều gắn với dak, như: dak
diu (nước bọt), dak bôk (nước cốt), dak chê (nước
chè), dak srat (nước giấm), dak mbut (nước lã), dak
lip (nước lụt), dak bro\ng (nước suối)… Một số địa danh có
nguồn gốc từ tiếng M’nông, như: dak Song (suối có tên là Song),dak
Ghênh (suối có tên là Ghênh)… Đối với tiếng Ê đê, tài liệu [10,
tr.474-475] đã sắp xếp từ nước (tiếng Việt) ứng với êa (tiếng
Ê đê). Theo đó, các từ ghép có yếu tố nước đều gắn với êa, như: êa
bah (nước bọt),êa braih (nước gạo), êa klô` (nước
hoa), êa nga] (nước lã), êa mur (nước ngầm), êa
hnoh (nước ngọt),… Một số địa danh có nguồn gốc từ tiếng Ê đê,
như: êa Tam (suối có tên là Tam), êa Tiêu (suối có tên là
Tiêu),… Vì thế, kiểu giải thích của Wikipedia: tiếng Ê Đê: Đăk = nước là
chưa chính xác. Thực ra trong tài liệu [10, tr.38] đã giải
thích: Đăk tiếng Ê đê có nghĩa là bẻ (bẻ gãy).
Còn Lăk trong Dak
Lăk sẽ được hiểu như thế nào. Lăk (hồ Lăk) là tên riêng của một
hồ nước ngọt tự nhiên lớn nhất tỉnh Đắc Lắc và lớn thứ hai Việt Nam sau hồ Ba Bể.
Hồ Lăk nằm bên thị trấn Liên Sơn (hay Lạc Thiện) huyện Lắk, tỉnh Đắc Lắc, cạnh
tuyến đường giao thông giữa Buôn Ma Thuột và Đà Lạt, cách thành phố Buôn Ma Thuột
khoảng 56 km về phía Nam theo quốc lộ 27. Dân tộc bản địa ở đây, còn có cả một
huyền thoại nói về hồ Lắk: hồ sâu không đáy hoặc thông qua tận Biển Hồ (tỉnh
Gia Lai). Hồ rộng trên 5 km²http://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%93_L%E1%BA%AFk
- cite_note-0, được thông với con sông Krông Ana. Mặt hồ luôn xanh thẳm và phẳng
lặng, xung quanh hồ được bao bọc bởi những dãy núi cao và có các cánh rừng
nguyên sinh rộng lớn với hệ động, thực vật phong phú. Theo truyền thuyết hồ Lăk
được tạo ra bởi anh hùng Lăk Liêng người dân tộc M'nông. Do vị trí quan trọng
và đặc điểm của hồ Lăk với vùng đất cao nguyên này nên địa danh tỉnh Đắc Lắc được
gắn với một phần tên gọi của hồ Lăk.
Vậy Lăk là tên riêng của
một hồ nước có mối liên hệ gì với lac (nước) trong tiếng Pháp. Theo
nhận định của chúng tôi, nếu dựa vào truyền thuyết về hồ Lăk của người M’nông
thì Lăk (M’nông) và lac (Pháp) không có mối liên hệ gì với
nhau. Bởi vì, những truyền thuyết thường ra đời gắn với lịch sử xa xưa của cộng
đồng, còn ngôn ngữ của người Pháp mới du nhập vào Tây Nguyên trong những năm cuối
thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX. Thế nhưng, xét về qui luật giao thoa tiếp xúc ngôn
ngữ, chúng ta cũng thừa nhận rằng tiếng M’nông, tiếng Ê đê có quan hệ tiếp xúc
với nhiều ngôn ngữ khác trong đó có tiếng Việt, tiếng Pháp. Vì vậy, Lăk (tên
riêng hồ nước - M’nông) và lac (nước - Pháp) do ngẫu nhiên hay nằm
trong qui luật ấy. Phải chăng người M’nông đã mượn tiếng Pháp để phiên âm cho
ngôn ngữ của mình để đặt tên hồ nước là Lăk.Vì cách phát âm gần giống nhau
do cấu tạo các âm vị.
Còn Lak trong Dak
Lak thì sao? kiểu viết này không thuyết phục, bởi vì Lak trong
tiếng Ê đê có nghĩa là bệnh lác (bệnh hắc lào). Trong tài liệu [1,
tr.36] giải thích lak có nghĩa là bệnh lác (hay được gọi
là bệnh hắc lào – ‘’một thứ bệnh ngoài da làm thành những vệt
tròn hay vòng cung, xung quanh có nhiều mụn gây ngứa’’) [4,tr.515]. Vì thế, có
thể khẳng định, người dân bản địa không thể lấy lak (bệnh hắc lào) để
đặt một thành tố cho tên địa danh Đắc Lắc được.
Cách viết Đắk Lắk cũng
vừa không đúng với nguồn gốc ngữ nguyên vừa không đúng với cấu tạo từ tiếng Ê
đê, tiếng M’nông (tiếng Ê đê, tiếng M’nông không có thanh điệu) và trong tiếng
Việt cũng không có kiểu kết hợp các âm vị như thế. Cho nên Đắk Lắk là
một ký hiệu mới. Thực tế cho thấy rằng: do nhu cầu của cuộc sống, các ngôn
ngữ của các dân tộc thiểu số (trong đó có tiếng Ê đê và tiếng M’nông) và
tiếng Việt trên địa bàn Tây Nguyên giao thoa tiếp xúc với nhau để bổ sung
vốn từ cho ngôn ngữ cộng đồng. Quá trình này đã tạo nên những đơn vị ngôn ngữ mới
khác với cơ sở định danh ban đầu. Cách viết khác,
như: Đak hay Đác cũng không có cơ sở về khoa học ngôn ngữ.
Thông thường khi định danh cho sự
vật nào, con người thường gắn cho nó một lí do nhất định. Lí do đó có thể xuất
phát từ khách quan (dựa vào đặc điểm, tính chất của đối tượng); hoặc lí do chủ
quan (dựa vào khát vọng đời sống tinh thần, tâm linh của chủ thể định danh). Địa
danh Đắc Lắc, xét từ nguồn gốc ngữ nguyên được viết là Dak Lăk vừa có
cả hai lí do định danh trên.
Như vậy, vấn đề đặt ra là, cần chọn
cách viết địa danh Đắc Lắc như thế nào cho đúng với cơ sở khoa học, đúng với
văn hóa cộng đồng và đúng với qui định chính tả tiếng Việt và được mọi người
tán thành. Để thực hiện được mục đích này, cần có vai trò của Nhà nước trong việc
ban hành các chính sách ngôn ngữ phù hợp. Ở phạm vi bài viết, chúng tôi tổng hợp
một số quan điểm chọn cách viết địa danh Đắc Lắc như thế nào cho đúng để cùng
trao đổi với các độc giả đang quan tâm về vấn đề này.
Quan
điểm thứ nhất:
Bảo vệ sự trong sáng và nhất
quán của tiếng Việt trong một quốc gia thống nhất, nhiều ý kiến cho rằng: ở Việt
Nam có 54 dân tộc và khoảng chừng ấy thứ tiếng, nếu mỗi tiếng của mỗi dân tộc
dùng để ghi địa danh riêng cho dân tộc đó thì vô cùng phức tạp. Bởi lẽ, không
phải người nào cũng biết các tiếng của cộng đồng dân tộc khác để giao tiếp được.
Vì thế để tiện lợi và thống nhất sử dụng tên địa danh trong lãnh thổ Việt Nam,
chúng ta nên sử dụng ngôn ngữ chính thức trong quốc gia Việt Nam (Quốc ngữ)
theo qui định của Nhà nước, đó là tiếng Việt và chính tả tiếng Việt. Vì vậy, địa
danh Đắc Lắc phải viết là Đắc Lắc.
Nhìn ra ngôn ngữ một số nước
trên thế giới, chúng ta thấy: người Anh vẫn sử dụng các tên, như: Naples,
Germany, Spain, Bavaria, Vienna, Warsaw... chứ không đổi ra các dạng gốc,
như: Napoli, Deutschland, Espana, Bayer, Wien, Warszawa…; hay người Pháp
cũng không đổi các tên, như: Naples, Londres, Galles, Ecosse, Allemagne,
Bavière, Vienne, Varsovie... cho đúng dạng gốc là Napoli, London,
Wales, Scotland, Deutschland, Bayer, Wien, Warszawa… Cho nên quan điểm trên đây
của người Việt là hợp lí.
Quan
điểm thứ hai:
Phản ảnh đúng hơn cách phát âm của
ngôn ngữ người thiểu số, cho nên cần phải viết địa danh các dân tộc thiểu số
như ngôn ngữ bản địa của họ, như: Địa danh Đắc Lắc phải viết là Dak Lăk.Vì
thực tế cho thấy có nhiều từ trong tiếng các dân tộc thiểu số phải đánh vần,
như: Chư Yang Sin, Chư H’Mu, Chư Yang Pel… trong tiếng Ê đê, hoàn toàn
khác với kiểu đánh vần của tiếng Việt. Do đặc điểm cấu tạo từ, cấu tạo âm
tiết của tiếng các dân tộc thiểu số khác với tiếng Việt, nên kiểu đánh vần của
tiếng Việt có đặc điểm riêng (tiếng Việt là ngôn ngữ đơn lập, có tính đơn tiết,
phân tiết triệt để và có thanh điệu). Vì thế không thể đọc tiếng các dân tộc
thiểu số theo luật chính tả tiếng Việt.
Quan điểm
thứ ba:
Quan điểm này, hòa hợp giữa hai
quan điểm trên. Hội đồng Quốc gia chỉ đạo Biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam
đăng trên địa chỉ http://www.bachkhoatoanthu.gov.vn, ở
mục 6, phần II, qui định: Tên người và tên địa lí của các dân tộc thiểu số
Việt Nam viết theo tiếng Việt và ghi chú tên dân tộc trong ngoặc đơn như trong
Từ điển bách khoa Việt Nam. Ví dụ: Đắc Lắc (Đăk Lăk), Bắc Cạn (Bắc Kạn). Tài
liệu này có thể chấp nhận cách thức trình bày nhưng khi sử dụng Đăk
Lăk trong Đắc Lắc (Đăk Lăk), để làm ví dụ, theo như lí giải
ở phần trên thì chưa chính xác. Theo quan điểm này thì phải viết Đắc Lắc
(Dak Lăk).
Như vậy, để viết tên địa danh Đắc
Lắc trong các phương tiện thông tin đại chúng, theo kiểu phiên âm ra tiếng Việt,
thực hiện chuẩn hóa tiếng Việt trong một quốc gia thống nhất thì nên chọn quan
điểm (1), viết là Đắc Lắc; Viết theo ngôn ngữ của người bản địa thì
chọn quan điểm (2), viết là Dak Lăk; Viết theo qui định của Hội đồng
Quốc gia chỉ đạo Biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam thì chọn quan điểm (3),
viết là Đắc Lắc (Dak Lăk).
Theo chúng tôi lãnh đạo tỉnh Đắc
Lắc nên tham khảo ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu về ngôn ngữ, văn hoá vùng đất
Đắc Lắc và dựa vào những qui định thống nhất của Nhà nước để có thể điều chỉnh
lại cách viết đã được quy định trên đây, nhằm đưa ra được một cách viết bảo đảm
tính văn hoá, khoa học, được nhiều người thừa nhận nhất. Để thực hiện chuẩn hóa
về ngôn ngữ, thiết nghĩ Nhà nước ta cần có một pháp lệnh về ngôn ngữ.
3.
Tóm lại:
Địa danh cũng như tên gọi các sự
vật khác được hình thành thường xuất phát từ những lí do khách quan (dựa vào đặc
điểm tính chất của sự vật) và những lí do chủ quan (dựa vào có lí do ý muốn chủ
quan của con người). Những lí do đó có thể bị mờ đi theo thời gian và những biến
đổi của cuộc sống. Vì vậy, để hiểu đúng địa danh và viết đúng địa danh chúng ta
cần tìm lại nguồn gốc ngữ nguyên của nó. Chính điều đó giúp chúng ta hiểu đúng
những đặc điểm văn hóa, lịch sử, thiên nhiên và con người của một vùng đất. Từ
những giá trị văn hóa mà địa danh đem lại, giúp con người vươn tới những giá trị
cao đẹp trong hiện tại và hướng đến tương lại. Hiểu sai, viết sai địa danh, con
người đã vô tình làm mất đi những giá trị văn hóa và lịch sử để lại dấu ấn trên
địa danh.
TS. Nguyễn Minh Hoạt
Tài liệu tham khảo
1.
Y Chang Niê Siêng (1979), Klei hriăm boh blu\ Ê đê (Ngữ vựng Ê đê), Tủ
sách dân tộc thiểu số Việt Nam cuốn 7 phần 1, Viện Chuyên khảo Ngữ học
(Sum mer Institute of Linguistics Huntigton Beach, California).
2.
Trần Văn Dũng (2005), Những đặc điểm chính của địa danh ở Dak
Lăk, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Đại học Vinh.
3.
Nguyễn Minh Hoạt (2012), Từ loại danh từ trong tiếng Ê đê, Luận án Tiến
sĩ Ngữ văn, Học viện Khoa học Xã hội, Hà Nội.
4.
Hoàng Phê (chủ biên) (1979), Từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, Nxb Đà
Nẵng – Trung tâm Từ điển học Hà Nội – Đà Nẵng.
5.
Đoàn Văn Phúc (1996), Ngữ âm tiếng Ê đê, Nxb KHXH, Hà Nội.
6. Đoàn
Văn Phúc, Tạ Văn Thông (2009), Ngữ pháp tiếng Ê đê, UBND tỉnh
Dak Lăk, (bản thảo đã nghiệm thu).
7. Đoàn
Thị Tâm (2012), Hệ thống từ ngữ chỉ người trong tiếng Ê đê, Luận án
Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh.
8.
Nguyễn Kiên Trường – Trương Anh (2009),Từ điển Việt – M’nông , Nxb Từ
điển Bách khoa, Hà Nội.
9.
UBND tỉnh Dak Lăk - Sở Giáo dục và Đào tạo Dak Lăk - Trường
Đại học Tổng hợp TP Hồ Chí Minh (1994),Từ điển M’nông –Việt.
10.
UBND tỉnh Dak Lăk- Sở Giáo dục và Đào tạo - Viện Ngôn ngữ học (2004), Từ
điển Việt – Ê đê.
11.
Viện Ngôn ngữ học - Trung tâm Từ điển học (2006),Từ điển Tiếng Việt, Nxb
Đà Nẵng.
Nhận xét
Đăng nhận xét