CÀ LÀNG HẠC ĂN GÃY RĂNG
CÀ LÀNG HẠC ĂN GÃY RĂNG
Tục ngữ Thanh Hóa có câu "Cà
làng Hạc ăn gãy răng; khoai làng Lăng ăn tắc cổ". Sách "Ca dao
sưu tầm ở Thanh Hóa" (Nhóm Lam Sơn-NXB Văn Học-1963) có lẽ là cuốn
sách đầu tiên thu thập câu tục ngữ này. Tuy nhiên không hiểu tại sao các tác giả
lại xếp vào thể loại "ca dao"? Trong sách "Từ điển tục ngữ
Việt" (NXB Thời Đại-2010) Nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương đã đúng khi
đưa câu "ca dao" này trở lại thể loại tục ngữ. Tác giả Nguyễn Đức
Dương giải thích như sau: "Cà làng Hạc ăn gãy răng; khoai làng Lăng
ăn tắc cổ. Cà làng Hạc (rắn tới độ) có thể làm gãy cả răng khi nhai; khoai
làng Lăng (cứng tới độ) có thể làm tắc cả cổ khi nuốt." Sách cũng chú
thích rõ ràng: "HẠC dt Thọ Hạc (=ngôi làng nằm trên địa phận xã Đông
Thọ, thành phố Thanh Hóa hiện thời) [nói tắt] LĂNG dt. Tên dân gian hay dùng để
gọi Linh Lộ, ngôi làng nằm trên địa phận xã Quảng Hợp, huyện Quảng Xương tỉnh
Thanh Hóa hiện nay."
Vậy có đúng là "Cà làng Hạc
(rắn tới độ) có thể làm gãy cả răng khi nhai; khoai làng Lăng (cứng tới độ) có
thể làm tắc cả cổ khi nuốt" không? Theo chúng tôi, để hiểu đúng
câu tục ngữ "Cà làng Hạc ăn gãy răng; khoai làng Lăng ăn tắc cổ" không
thể chỉ dừng lại "nghĩa từ vựng" và "nghĩa hiển
ngôn" của “gãy răng” và “tắc cổ” (1). Bởi đây chỉ
là cách nói ngoa dụ của dân gian(2)
Thủy thổ đặc biệt với chất đất
thịt pha cát của làng Hạc sản ra thứ cà to chừng bằng quả trứng gà so,
dày cùi, màu trắng, ăn rất giòn. Khi cắn, âm thanh quả cà vỡ ra, giòn tan, khiến
người ta tưởng như hàm răng người ăn cà cũng "gãy" ra, vỡ
theo đánh “đốp”. (Có giống cà quả nhỏ, mầu trắng, ăn giòn tan, kêu như “pháo”
nên gọi là cà pháo). Làng Lăng (làng Linh Lộ gần Thái ấp Văn Trinh của
Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật) có giống khoai lang tên là Ô Xập, lá chia nhiều
thùy hình chân vịt, gân lá hơi ngả màu tím. Giống khoai quý Ô Xập trồng trên những
cánh đồng đất cát làng Lăng, chất đất màu mỡ, tơi xốp, giàu ka-li, thoát nước tốt
khiến khoai ít bị sùng. Khoai Ô Xập đủ chất dinh dưỡng nên khi củ già thì căng
tròn, luộc chín vỏ nứt nở, để lộ bột trắng xóa từ ngoài vào trong. Khi ăn khoai
làng Lăng phải nhai chậm rãi, nuốt từ từ, nếu không dễ bị nghẹn, cảm tưởng như
cổ bị "tắc" lại. Câu tục ngữ này ngợi ca hai sản vật cà
và khoai đều ngon, quý, không phải chê “rắn” và “cứng tới độ” ăn “gãy
răng khi nhai” và “tắc cả cổ khi nuốt” như cách giải thích theo
nghĩa hiển ngôn của Nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương.
Trong kho tàng thành ngữ, tục ngữ
Việt Nam rất nhiều câu mang tính địa phương vùng miền tổng kết, nhận xét về
phong tục, tập quán, sản vật… của vùng miền ấy. Việc lựa chọn, tập hợp những
câu tục ngữ tiêu biểu mang tính địa phương để đưa vào một công trình như "Từ
điển tục ngữ Việt" và việc làm cần thiết. Tuy nhiên, nếu soạn giả không am
hiểu lời ăn tiếng nói, phong tục tập quán, thủy thổ, sản vật... của địa phương,
vùng miền mà chỉ căn cứ vào nghĩa từ vựng, nghĩa hiển ngôn đơn thuần rất
dễ rơi vào tình trạng võ đoán.
Hoàng Tuấn Công
31/7/2015
Chú thích
(1) Lời nói đầu của "Từ
điển tục ngữ Việt" Nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương nêu ra 3 yêu cầu quan
trọng trong "Cách thức diễn giải dữ liệu" mỗi câu tục ngữ
là: "làm rõ nghĩa từ vựng của các từ ngữ hợp thành từng câu"; "làm
rõ nghĩa hiển ngôn của mỗi câu" và "làm rõ nghĩa hàm ẩn
của câu ấy (nếu câu ấy có cả nghĩa hàm ẩn)". Có lẽ ông cho rằng câu tục
ngữ "Cà làng Hạc ăn gãy răng; khoai làng Lăng ăn tắc cổ" không
có nghĩa hàm ẩn.
(2) Thành ngữ, tục ngữ, ca dao
dân gian thường có lối nói thậm xưng, ngoa dụ. Có thể lấy thêm ví dụ câu ca
vùng Quảng Xương- Thanh Hóa:
"Tháng tám đàn bà sinh câm,
Giần, sàng sứt cạp, chó thâm
xương sườn."
Tháng tám giáp hạt hết gạo, nông
dân cắt lúa non về rang lên làm cốm, làm thính ăn đỡ đói. Các bà, các chị vừa
làm vừa nếm. Vì cốm, thính đều khó ăn, ai cũng phải ngậm trong miệng nhai, bất
ngờ có người hỏi chuyện cứ ú ớ chẳng khác nào bị câm. Làm cốm, thính phải dùng
nia, giần, sàng để sàng sảy, có chút dính vào cũng phải tận thu, "vập"
cho ra bằng hết. Tháng ba, ngày tám, chủ thiếu ăn, chó cũng đói giơ xương sườn.
Ngửi thấy mùi thơm ngũ cốc, lũ chó quanh quẩn lăn vào la liếm, bị người đuổi ra
không được, tiện tay dùng giần, sàng vập (đánh) vào chó (có tham khảo cách
giải thích của Nhà nghiên cứu Hoàng Tuấn Phổ trong sách "Địa chí Văn hóa
huyện Quảng Xương")
Nhận xét
Đăng nhận xét