KHÔNG NÊN THẦN THÁNH HÓA HÁN NGỮ
KHÔNG NÊN
THẦN THÁNH HÓA HÁN NGỮ
Tâm lý sùng bái chữ viết tồn tại
mấy nghìn năm nay là một loại tín ngưỡng chỉ có ở người Hoa. Chữ Hán do họ phát
minh chủ yếu ghi ý, không ghi âm, vì thế các cộng đồng nói tiếng địa phương
khác nhau có thể dùng chung thứ chữ này, qua đó hiểu nhau, nhờ vậy thực hiện được
việc thống nhất đất nước – sự nghiệp gian khó nhất trong lịch sử Trung Hoa.
Tính siêu việt ngôn ngữ và công lao thần kỳ ấy của chữ Hán khiến nó được
quý trọng tới mức thần thánh hóa. Người Hoa tin vào truyền thuyết thánh nhân bốn
mắt Thương Hiệt làm chữ: mỗi lần tạo một chữ thì quỷ thần lại kinh hãi khóc rống
lên vì thiên cơ bị lộ. Ngoài ra, tính chất ghi ý làm cho chữ Hán ẩn chứa những
triết lý cao siêu, chỉ người tài giỏi mới hiểu, vì thế gọi là chữ thánh hiền.
Đặc trưng hình vẽ mang lại cho chữ Hán vẻ đẹp độc đáo, viết chữ trở thành nghệ
thuật hội họa thư pháp. Do được sùng bái, chữ Hán không chỉ là hệ thống ký
hiệu ghi Hán ngữ mà còn là vật mang, là biểu trưng của văn hóa Trung Hoa, thậm
chí người Hoa cho rằng mọi thứ tốt, xấu của nền văn hóa ấy đều liên quan tới chữ
Hán.
Chữ Hán vốn rất khó học lại bị
thần bí hóa đã trở thành thứ tri thức cao siêu khiến dân chúng kính sợ, vì thế
chữ ra đời hơn 3000 năm mà năm 1949 chỉ có chừng 10% người Trung Quốc (TQ) biết.
Nạn sùng bái chữ sinh ra quan niệm lệch lạc người biết nhiều chữ là người
tài giỏi, từ đó hình thành một tầng lớp trí thức giỏi thuộc lòng, không giỏi
sáng tạo, xa rời thực tế, chỉ biết chữ xuông mà chẳng biết gì về kỹ năng sinh tồn,
khoa học công nghệ. Luận Ngữ viết Học nhi ưu tắc sĩ – ai học giỏi, tức
biết nhiều chữ, ắt được làm quan cai trị. Vì thế xã hội bị kìm hãm, dăm nghìn
năm lịch sử, mấy trăm triệu dân không có lấy một trí tuệ như Aristote,
Platon,... của Hy Lạp bé tẹo, cội nguồn của chữ abc.
Khi TQ dòm ngó ngôi vương siêu
cường quốc lại xuất hiện thuyết chữ Hán ưu việt, cho rằng chữ Hán tiên tiến
nhất thế giới. Từ năm 1989 thuyết này tràn ngập TQ ; không ít quan chức,
trí thức kể cả viện sĩ cũng tin theo, dân thường lại càng tin sái cổ.
Hai nghìn năm trước, tâm lý sùng
bái chữ Hán theo chữ này vào Việt Nam và để lại hậu quả tai hại. Trong
bài Văn Quốc ngữ trên tạp chí Nam Phong số 2 năm 1917, đại học giả Phạm
Quỳnh viết về cái tâm lý ông gọi là say đắm chữ Tàu ấy như sau:
... Ta chẳng nên oán gì các
cụ ta ngày xưa vì say đắm chữ Tàu nên lãng bỏ tiếng Nôm, để cho con cháu ngày
nay khổ vì có nước mà không có văn, có người mà không có
cách nói cho nhau nghe ngoài những câu nhật dụng thường đàm...
Và ông chỉ ra lối thoát khỏi tai
họa ấy: Chữ Quốc ngữ chính là cái bè để cứu vớt bọn ta trong bể trầm luân
vậy... Trước ta không có ai làm văn bằng Nôm... Xin đồng bào ta chớ
lãng bỏ văn quốc ngữ. Tương lai nước nhà chính ở đó.
Ông kêu gọi mọi người chỉ viết
văn bằng chữ Quốc ngữ mà ông coi là công cụ kỳ diệu để giải phóng trí tuệ.
Đúng thế, nhờ dùng thứ chữ nghĩ và nói thế nào thì viết thế ấy, tư duy người
mình được cởi trói, nền văn minh Việt đạt được những thành tựu hơn hẳn mấy
nghìn năm trước.
Tiếng Việt sau khi dùng chữ Quốc
ngữ đã phát triển vượt bậc, dân tộc ta hiện sở hữu một ngôn ngữ nói và viết hoàn
hảo (không như chữ Hán bị chê bai và cải cách hơn trăm năm nay chưa xong), hoàn
toàn thích hợp với tư duy người Việt, diễn đạt được mọi khái niệm khoa học xã hội-nhân
văn, khoa học công nghệ tiên tiến nhất của nhân loại, đáp ứng yêu cầu tin học
hóa, hòa nhập quốc tế... Vốn từ ngữ tiếng ta cực giàu và giàu thêm mãi, chuyển
ngữ được mọi ngoại ngữ. Chữ Việt có khả năng hiếm thấy ghi âm được hầu hết ngữ
âm tiếng Anh, TQ... trong khi chữ của các thứ tiếng ấy không ghi âm được nhiều
ngữ âm tiếng Việt...
Nhưng lạ thay, nước ta ngày nay
vẫn có người say đắm chữ Tàu. Năm 1994, một nhà ngôn ngữ học nổi tiếng nói
chữ Hán ưu việt hơn chữ abc; ông tỏ ý tiếc là nước ta bỏ chữ Hán dùng chữ Quốc
ngữ; ông tin vào dự đoán ba chục năm nữa cả thế giới sẽ dùng chữ Hán. Thực tế
cho tới nay chưa thấy nước nào dùng chữ Hán, ngược lại người TQ đua nhau học tiếng
Anh. Vì người Hoa đông nhất nên chữ Hán được nhiều người dùng nhất, nhưng trong
việc biên soạn các văn bản ban đầu ở Liên Hợp Quốc, chữ Hán lại rất ít được
dùng, chứng tỏ nó chẳng hề ưu việt [1].
Mới đây một tiến sĩ Hán Nôm kiến
nghị : - Chính phủ ta công nhận tiếng TQ hiện đại và tiếng Anh là
hai ngôn ngữ chính thức (NNCT) của Nhà nước Việt Nam, như vậy nước
ta sẽ có một NNCT thứ nhất (tiếng Việt) và hai NNCT thứ hai ; - Mọi văn bản
hành chính giấy tờ từ cấp thấp nhất đến cao nhất, mọi giao dịch, buôn bán, chứng
chỉ... đều phải dùng 3 NNCT ; - Phải dần dần coi một ngoại ngữ là ngôn ngữ
giảng dạy chính thức ở các trường, bậc đại học sẽ giảng dạy bằng ngoại ngữ ;
- Người Việt phải biết ít nhất một ngoại ngữ là tiếng Anh hoặc tiếng TQ. [2]
NNCT là ngôn ngữ dùng để viết Hiến
pháp và mọi văn bản pháp lý của nhà nước. Xưa nay các quốc gia độc lập bao giờ
cũng chỉ chọn tiếng mẹ đẻ làm NNCT; không chọn ngoại ngữ. Tiếng TQ và tiếng Anh
không phải là tiếng mẹ đẻ của người Việt nên dĩ nhiên không thể được coi là
NNCT. Việc dùng 3 NNCT để soạn và in mọi văn bản hành chính trong cả nước là việc
làm phản tác dụng, vô ích, gây tốn kém lãng phí cực lớn về dịch thuật và in ấn,
trên thực tế không thể nào làm được. Hiến pháp CHXHCN Việt Nam đã quy định tiếng
Việt là ngôn ngữ quốc gia, tức NNCT của nhà nước.
Chỉ những nước có nhiều sắc tộc
lớn, nhiều ngôn ngữ lớn mới có hơn một NNCT. Như Singapore có 4 sắc tộc chủ yếu là
các cộng đồng người Hoa, Malay, Tamil, và người Âu-Á (Eurasian, nói tiếng Anh).
Nước này chọn Anh ngữ là NNCT thứ nhất ; các cộng đồng dùng tiếng Anh để
giao tiếp với nhau và đối ngoại ; tiếng Hoa, Malay, Tamil là các NNCT thứ
hai.
Việt Nam có 53 dân tộc thiểu số,
từ ngàn xưa toàn dân nước ta đồng lòng chỉ dùng tiếng của người Kinh làm ngôn
ngữ chung. Sau ngày Việt Nam giành độc lập, tiếng Việt vững chắc chiếm
địa vị NNCT duy nhất của nước ta. Việc công nhận bất cứ NNCT nào khác sẽ có thể
làm suy yếu địa vị độc tôn của tiếng Việt, gây mất ổn định ngôn ngữ, tạo nguy
cơ bất ổn chính trị.
Cần thấy rằng, khi quy định 3
NNCT thì ai cũng có quyền dùng một trong 3 ngôn ngữ đó để nói và viết ở mọi trường
hợp (tại tòa án, các diễn đàn...), có quyền yêu cầu Nhà nước phải tổ chức giảng
dạy 3 ngôn ngữ này và phải dùng chúng trên tất cả mọi đài, báo, xuất bản phẩm
các loại... Nước ta không thể có đủ kinh phí để làm như vậy. Khi toàn dân nói
và viết bằng 3 thứ tiếng thì xã hội sẽ rất rối ren, dễ kéo theo các bất ổn
khác, nhất là khi có sự tiếp tay từ bên ngoài.
Ngoài ra, chừng nào TQ chưa từ bỏ
ý đồ bành trướng thì chúng ta vẫn cần cảnh giác với việc phổ cập tiếng Hán ở
ta, thứ vũ khí thời Bắc thuộc họ đã dùng để đồng hóa, tiến tới xóa bỏ quốc gia
Việt Nam. May sao tổ tiên ta đã làm thất bại âm mưu đó. Hiện nay với mong muốn
trở thành siêu cường, TQ đang mở cả nghìn Học viện Khổng Tử miễn phí dạy tiếng
Hán khắp toàn cầu. Ý đồ coi Hán ngữ là NNCT của Nhà nước Việt Nam và
tổ chức học, dùng thứ tiếng đó trong toàn dân là đi ngược lại ý chí của tổ tiên
ta và đáp ứng tốt nhất chính sách bành trướng văn hóa của TQ.
Tóm lại, người Việt Nam nếu có
nhu cầu và điều kiện đều nên học ngoại ngữ, như tiếng Anh, tiếng TQ. Nhưng việc
lấy bất cứ ngoại ngữ nào làm NNCT của Nhà nước ta đều sẽ ảnh hưởng xấu tới chủ
quyền quốc gia, vì thế dứt khoát không thể chấp nhận!
NGUYỄN HẢI HOÀNH
[1] Tỷ lệ dùng 6 ngôn ngữ làm việc
trong soạn thảo văn bản gốc tại cơ quan LHQ: tiếng Anh 80%, Pháp 15%, Tây Ban
Nha 4%, còn lại 1% : tiếng Nga, A Rập, TQ. (theo Châu Hữu Quang, nhà ngôn
ngữ số một TQ).
[2] http://tiasang.com.vn/-giao-duc/Can-som-cham-dut-tinh-trang-don-ngu-o-Viet-Nam-9999
Nhận xét
Đăng nhận xét