NGHĨ THOÁNG VỀ CHUYỆN ĐỌC THƠ - Tiến sỹ Nguyễn Hưng Quốc
NGHĨ THOÁNG
VỀ CHUYỆN ĐỌC THƠ
Trong
một đất nước thường được gọi là nước thơ như Việt Nam, hẳn có nhiều người thích
đọc thơ. Nhưng đọc thơ là đọc cái gì?
Đọc
thơ, trước hết, theo tôi, là đọc một văn bản. Đọc văn bản là đọc chữ. Chữ thực
chất là một thứ ký hiệu. Không có ký hiệu nào tự nó và cho nó cả. Ký hiệu nào
cũng là một ký hiệu của một cái gì khác.
Ferdinand
de Saussure (1857-1913) phân biệt hai khía cạnh của ký hiệu (sign): cái biểu
đạt (signifier) và cái được biểu đạt (signified), tức, nói một cách tóm tắt,
chữ và ý nghĩa của chữ. Nhưng chữ trong thơ không phải là những xác chữ trong
từ điển. Trong thơ, mỗi chữ đều có âm vang và màu sắc riêng. Không những vậy,
ngay cả cách trình bày của chữ và những khoảng cách giữa các chữ cũng có âm
vang và màu sắc của chúng. Chính những âm vang và màu sắc ấy tạo nên nhạc tính
và ẩn ý của thơ.
Đọc
thơ, hơn nữa, là truy tìm những cấu trúc và những mối quan hệ liên quan đến
những cấu trúc ấy. Có thể nói, hiểu một bài thơ là phát hiện ra được cái quan
hệ ẩn tàng trong và ngoài bài thơ ấy. Phát hiện các quan hệ là phát hiện tính
hệ thống của một bài thơ. Bài thơ hay bất cứ một tác phẩm nghệ thuật nào cũng
là một hệ thống. Tính hệ thống được biểu hiện qua cấu trúc. Hiểu một bài thơ,
do đó, thực chất là khám phá ra cấu trúc của nó.
Trước,
với các nhà Phê bình Mới và các nhà cấu trúc luận, cấu trúc ấy là một cái gì
khép kín, bao gồm các quan hệ nội tại giữa những cái biểu đạt và những cái được
biểu đạt trong bài thơ. Với các nhà hậu cấu trúc và giải kiến tạo sau này, một
cái cấu trúc khép kín như vậy là một điều phi thực. Cái được biểu đạt không
phải là những gì cố định, bất biến và tự tại. Cái được biểu đạt ấy, đến lượt
nó, lại trở thành cái biểu đạt cho một cái gì khác nữa. Cứ thế, liên tục. Hệ
quả, cái gọi là hiểu một bài thơ là một tiến trình hầu như vô tận. Không ai có
thể đi đến cùng nó cả. Nó không ngớt được mở rộng và cũng không ngớt được/bị
hóa thân, ở mỗi người đọc cũng như ở từng lần đọc. Chính vì thế, nhiều người ví
bài thơ cũng như dòng sông của Heraclitus, triết gia cổ đại Hy Lạp, ở đó, không
ai có thể tắm hai lần được.
Tiến
trình nào cũng có sử tính: sử tính của việc tìm hiểu. Do đó, đằng sau một bài
thơ, bất cứ là bài thơ nào, cũng có đến hai lịch sử: một, lịch sử nó được sáng
tác và phổ biến; hai, lịch sử nó được đọc. Chỉ có loại lịch sử thứ hai mới trở
thành tài sản của bài thơ: nó làm cho bài thơ giàu có và sâu sắc hơn hẳn. Nói
cách khác, cái chúng ta quen gọi là ý nghĩa của bài thơ vừa là những gì chất
chứa bên trong và/hay được khơi gợi từ bài thơ vừa là lịch sử của các phát hiện
mà người đọc, từ thế hệ này đến thế hệ khác, mang đến cho nó. Cũng là Truyện
Kiều, nhưng cái Truyện Kiều chúng ta có hiện nay chắc chắn là giàu có và sâu
sắc hơn cái Truyện Kiều lúc Nguyễn Du còn sinh thời.
Khi
đọc thơ, người ta không chỉ đọc thơ. Đọc thơ còn là đọc các cảm xúc và ý nghĩ
dậy lên từ chính tâm hồn của mình. Đọc, do đó, không phải chỉ là một tiến trình
hướng ngoại, hướng đến tác phẩm và sau đó, tác giả, mà còn là một tiến trình
hướng nội, hướng vào thế giới mênh mông nhưng bí ẩn bên trong chính bản thân
mình.
Tôi
muốn ví việc đọc thơ với việc uống rượu: để thấy được cái ngon của rượu, người
ta phải lắng nghe những cảm giác còn lại trên lưỡi và trong họng của mình. Lúc
rượu đã chảy hẳn vào bụng.
NGUYỄN HƯNG QUỐC
**********************************************************************************************************
Nhận xét
Đăng nhận xét