liên quan đến Viện trưởng
Viện Văn học
Tạp chí điện tử Nông Thôn & Phát Triển
trực thuộc Hội Khoa học phát triển nông thôn Việt Nam có bài viết đặt ra nghi ấn
đạo văn đối với cuốn sách “Giọng điệu trong thơ trữ tình” của PGS-TS Nguyễn
Đăng Điệp, Viện trưởng Viện Văn học. Thế nhưng, vẫn chưa thấy tác giả “Giọng điệu
trong thơ trữ tình” có phản hồi gì.
Có hay không chuyện vi phạm bản quyền
trong tác phẩm “Giọng điệu trong thơ trữ tình”!?
THANH TÂM
Thời gian gần đây, Viện Văn học bỗng được
dư luận chú ý trở lại sau khi một tiến sĩ trẻ đang là Trưởng phòng Văn học Việt
Nam đương đại đặt vấn đề công khai trên facebook rằng, công trình của 1 tác giả
trẻ khác cũng ở cơ quan này vi phạm bản quyền.
Đối với nhiều người, điều đó không có gì
bất ngờ, bởi “nhà dột từ nóc” - cách đây không lâu, trong lúc trà dư tửu hậu,
chúng tôi đã chia sẻ với nhau một nghi vấn rằng, người đứng đầu cơ quan nghiên
cứu này đã có dấu hiệu lấy tri thức của người khác?
Cuốn sách mà chúng tôi đề cập ở bài viết
này là Giọng điệu trong thơ trữ tình (Qua một số nhà thơ tiêu biểu của phong
trào Thơ mới) của PGS. TS. Nguyễn Đăng Điệp do Nhà xuất bản Văn học ấn hành năm
2002.
Dưới dây, chúng ta lần lượt đọc lại cuốn
sách này để hiểu thêm về những tin đồn đó có thực không.
Tác giả cuốn “Giọng điệu trong thơ trữ
tình” ở trang 35 viết: “Giọng điệu là sự thể hiện lập trường xã hội, thái độ,
tình cảm, thị hiếu thẩm mỹ, sở trường ngôn ngữ của tác giả”. Trước đó, cuốn Từ điển thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán, Trần
Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên, Nxb. Giáo dục ấn hành năm 1992, tái bản
1997, ở trang 112 viết rằng: “Giọng điệu phản ánh lập trường xã hội, thái độ
tình cảm và thị hiếu thẩm mỹ của tác giả có vai trò rất lớn trong việc tạo nên
phong cách nhà văn…
Đọc 4 trang tiếp theo, chúng tôi nhận thấy
cuốn “Giọng điệu trong thơ trữ tình” viết như sau: “Giọng điệu vừa mang tính
“trời phú” vừa phải mang nội dung khái quát nghệ thuật và phải phù hợp với đối
tượng mà nó thể hiện.” (trang 39). Còn ở trang 112 cuốn Từ điển thuật ngữ văn học
(1997) viết: “Giọng điệu trong tác phẩm gắn với cái giọng ‘trời phú’ của mỗi
tác giả nhưng mang nội dung khái quát nghệ thuật, phù hợp với đối tượng thể hiện”.
Từ hai ví dụ trên, chúng ta thấy, nghi vấn
đạo văn của cuốn “Giọng điệu trong thơ trữ tình” hoàn toàn có cơ sở? Từ sự
trùng lặp tri thức và lời văn vừa dẫn, có thể nghĩ đến ba khả năng: một là nhóm
Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đạo văn của Nguyễn Đăng Điệp, hai là
ngược lại, Nguyễn Đăng Điệp đạo văn của nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử,
Nguyễn Khắc Phi, ba là Nguyễn Đăng Điệp là đồng tác giả của cuốn Từ điển thuật
ngữ văn học. Theo điều tra của chúng tôi, Nguyên Đăng Điệp khi viết Giọng điệu
trong thơ trữ tình là nghiên cứu sinh, là học trò, có học hỏi đọc tham khảo Từ
điển thuật ngữ văn học, không phải là đồng tác giả với nhóm tác giả Lê Bá Hán,
Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, vậy loại bỏ trường hợp thứ ba. Trường hợp nhóm
Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đạo văn thì sao? Có thể loại bỏ, vì cuốn
sách này được biên soạn, xuất bản trước cả khi ông Nguyễn Đăng Điệp làm nghiên
cứu, xuất bản cuốn Giọng điệu trong thơ trữ tình.
Xin cung cấp bạn đọc trường hợp nghi vấn
khác.
Trang 40 cuốn “Giọng điệu trong thơ trữ
tình” viết như sau: “Giọng điệu khác với ngữ điệu. Việc đồng nhất hai khái niệm
này là không hợp lý. Ngữ điệu là một phạm trù của ngôn ngữ học còn giọng điệu
là một phạm trù của thi pháp học”. Trong khi đó, từ năm 1988 Lê Ngọc Trà đã viết
bài “Một số vấn đề thi pháp học”, sau đó bài này được in trong cuốn Lí luận và
văn học do Nhà xuất bản Trẻ xuất bản 1990, ở trang 153 Lê Ngọc Trà viết: “Giọng
văn (thơ) có quan hệ với giọng điệu, ngữ điệu của lời nói, nhưng hai cái không
phải là một. Giọng văn (thơ) là một phạm trù của thi pháp học, còn ngữ điệu là
một phạm trù của ngôn ngữ học.”
Đọc kĩ hơn sẽ thấy, cuốn Giọng điệu
trong thơ trữ tình có dấu hiệu đạo văn đến gần 1 trang của Lê Ngọc Trà. Cụ thể
như sau:
Ở các trang 152 và 153, 154 của cuốn Lí
luận và văn học viết: “Giọng của tác phẩm thường bao gồm giọng chính, và những
giọng khác”; “Có nhiều hình thức phân chia giọng văn (thơ) theo loại hình. Có
cách xác định giọng theo sắc thái tình cảm. Theo cách này có thể gọi giọng của
tác phẩm là trang trọng hay thân mật, thong thả hay vội vàng, bình thản hay gay
gắt, mạnh mẽ hay yếu ớt, có sức hay không có sức. Cách thứ hai phân chia giọng
điệu theo loại tình cảm. Ở đây sẽ có giọng bi, hài, trữ tình hay châm biếm,
lãng mạn, anh hùng ca hay dằn xé, xung đột… Cũng có có cách xác định giọng căn
cứ vào khuynh hướng tình cảm theo đó giọng của tác phẩm có thể là thông cảm hay
lên án, phê phán hay khẳng định, yêu thương hay cay độc. Ngoài ra có thể phân
ra giọng tường thuật, giọng nghi vấn, giọng mệnh lệnh hoặc giọng kể, giọng hát,
giọng ngâm…”
Còn ở trang 38 cuốn “Giọng điệu trong
thơ trữ tình” của Nguyễn Đăng Điệp diễn đạt như sau: “Việc phân chia loại hình
giọng điệu cũng khác nhau, xuất phát từ những tiêu chí khác nhau. Đứng về mặt cấu
trúc mà nói, người ta có thể chia thành giọng chính và giọng phụ… Nếu căn cứ
vào sắc thái tình cảm, có thể nói đến giọng gay gắt hay bình thản, trang trọng
hay suồng sã, mạnh hay yếu, kính cẩn hay châm biếm. Nếu căn cứ vào dạng thức
tình cảm sẽ có giọng bi, giọng hài, giọng anh hùng ca… Còn nếu chú ý đến khuynh
hướng tư tưởng thì có thể nói đến các loại giọng: thông cảm hay lên án, yêu
thương hay tố cáo, khẳng định hay phủ định… Cũng có khi, từ cái nhìn ngôn ngữ học,
người ta chia thành giọng trần thuật, giọng nghi vấn, giọng cảm thán”..
Để bạn đọc hiểu rõ hơn về sự liêm chính
học thuật của ông Nguyễn Đăng Điệp chúng tôi xin dẫn ra một ví dụ khác:
Trang 200 cuốn Từ điển thuật ngữ văn học
(1997) viết: nhịp điệu là “một phương tiện quan trọng để cấu tạo hình thức nghệ
thuật trong văn học, dựa trên sự lặp lại có tính chất chu kỳ, cách quãng hoặc
luân phiên của các yếu tố có quan hệ tương đồng trong thời gian hay quá trình
nhằm chia tách và kết hợp các ấn tượng. Trong văn học, nhịp điệu là sự lặp lại
cách quãng đều đặn và có thay đổi của các hiện tượng ngôn ngữ, hình ảnh, motif…
nhằm thể hiện sự cảm nhận thẩm mỹ về thế giới, tạo ra cảm giác vận động của sự
sống, chống lại sự đơn điệu, đơn nhất của văn bản nghệ thuật”. Trong khi trang
42 cuốn “Giọng điệu trong thơ trữ tình” của Nguyễn Đăng Điệp viết như sau:
“Nhìn một cách tổng quát, nhịp điệu là sự lặp lại có tính chất chu kì, cách
quãng hoặc luân phiên theo thời gian của các hiện tượng ngôn ngữ nhằm thể hiện
sự cảm nhận thẩm mĩ về thế giới trong sự vận động của nó”.
Cũng ở trang 200, cuốn Từ điển thuật ngữ
văn học (1997) viết: “Tất cả các cấp độ trong cấu trúc của một tác phẩm văn học
đều có những yếu tố lặp lại, luân phiên tạo thành nhịp điệu nghệ thuật…. ở cấp
độ tổ chức văn bản, đơn vị cơ bản của sự lặp lại trong thơ là dòng thơ (cũng được
gọi là câu thơ) với độ dài của nó gồm số tiếng (v.d: 4 tiếng, 5 tiếng, 6 tiếng,
7 tiếng, 8 tiếng) và vần như là điểm ngắt của nó. Vì vậy mỗi thể thơ có một nhịp
điệu riêng. Dòng thơ lại có kiểu ngắt nhịp của luật thơ… Nhịp điệu của thể thơ
và luật thơ tạo thành cái nền nhịp điệu trên đó nhà thơ tạo dựng nên nhịp điệu
riêng cho thơ mình, gắn với các phương tiện ngữ nghĩa. Trong văn xuôi, nhịp điệu
của tổ chức lời văn được hình thành trên cơ sở sự phân tách văn bản thành chương,
hồi, đoạn. Câu văn dài ngắn, khúc khuỷnh được lặp lại cũng tạo nên nhịp điệu cảm
nhận đời sống”.
Trong khi cuốn “Giọng điệu trong thơ trữ
tình” viết như sau: “Nhịp điệu tồn tại ở mọi cấp độ của tác phẩm văn học. Ở cấp
độ tổ chức văn bản thơ chẳng hạn, đơn vị cơ bản của sự lặp lại là các dòng thơ
(cụ thể là qua số tiếng: thơ 5 tiếng, thơ 7 tiếng...). Trong mỗi dòng thơ lại
có kiểu ngắt nhịp của luật thơ... Từ nhịp điệu của thể thơ và luật thơ, nghệ sĩ
sẽ xây dựng nhịp điệu của riêng mình. Còn trong văn xuôi, nhịp điệu thể hiện
qua cách phân chia chương, hồi, sự lặp lại các đơn vị câu và ngắt nhịp trong bộ
phận câu” (trang 43).
Vậy là chỉ cần đọc qua công trình này, bạn
đọc đã rõ chất lượng của Giọng điệu trong thơ trữ tình - một trong bốn công
trình của ông Nguyễn Đăng Điệp đang được đề nghị trao Giải thưởng Nhà nước này
ra sao.
Nhận xét
Đăng nhận xét