Kỳ 40 - ĐẠI VIỆT KHẲNG KHÁI TỪ CHÔI YẾU SÁCH PHƯƠNG BẮC BẢO VỆ ĐỒNG MINH
Kỳ 40
--------
--------
ĐẠI VIỆT KHẲNG
KHÁI
TỪ CHÔI YẾU SÁCH PHƯƠNG BẮC
BẢO VỆ ĐỒNG MINH
Với quyết tâm thôn tính Chiêm Thành, Nguyên triều lại điều động quân tiếp viện cho Toa Đô. A Lý Hải Nha được phái làm Bình chương hành tỉnh Kinh Hồ - Chiêm Thành, yêu cầu Đại Việt cho chúng mượn đường đi đánh Chiêm Thành. Đại Việt liền từ chối.
Toa Đô sai sứ đi thăm bệnh vua Indravarman V, thực chất là đi do thám.
Bảo Thoát Thốc Hoa cũng biết điều này nhưng không thể từ chối vì sẽ làm lộ kế
hoạch hoãn binh, quân Nguyên sẽ tấn công ngay trong khi quân Chiêm Thành chưa
hoàn toàn sẵn sàng. Để đối phó, Bảo Thoát Thốc Hoa ngầm kêu hai con tin về trước
báo cáo với vua Chiêm bàn cách đối phó, không cho sứ Nguyên vào căn cứ, còn
mình dẫn sứ Nguyên theo sau. Sứ giả của quân Nguyên cùng Bảo Thoát Thốc Hoa vừa
đi vào núi 2 dặm đã bị quân canh ngăn lại. Bảo Thoát Thốc Hoa bấy giờ tỏ vẻ như
bị vua Chiêm dối gạt và muốn trở giáo theo quân Nguyên, ông ta vờ nói với Lâm Tử
Toàn: “Quốc chủ dùng dằng không chịu ra hàng, nay lại phao lời là muốn giết
tôi, ông hãy về thưa với tỉnh quan rằng quốc chủ đến thì đến, không đến thì tôi
sẽ bắt đem nộp”. Bọn Lâm Tử Toàn tưởng thật bèn quay về báo lại với Toa Đô, để
cho Bảo Thoát Thốc Hoa trở về căn cứ quân Chiêm Thành. Vua Chiêm hạ lệnh giết một
số kiều dân người Hoa, đề phòng những người này báo tin cho quân Nguyên.
Ngày 8.3.1283, Bảo Thoát Thốc Hoa lại đến trại Toa Đô tiếp tục nhiệm vụ.
Ông ta dùng lời nói xấu vua Chiêm với Toa Đô, rồi vờ xin áo mũ của người Nguyên
để đi chiêu dụ người Chiêm, bắt cha con vua Indravarman V. Toa Đô tưởng thật
nên cũng thuận theo.
Ngày 15.3.1283, Bảo Thoát Thốc Hoa dẫn theo một số quan lại cao cấp của
Chiêm Thành đến trại Toa Đô “xin hàng”. Bấy giờ trong trại Toa Đô có một người
Hoa là Tăng Diên mấy ngày trước thoát khỏi sự giết hại của vua Chiêm, đã đến
khai báo với Toa Đô việc vua Chiêm trữ binh, đắp thành, phát chiếu cần vương đến
các châu quận. Toa Đô sai Tăng Diên ra đối chất với Bảo Thoát Thốc Hoa. Cuối
cùng, bằng lý lẽ sắc bén, Bảo Thoát Thốc Hoa đã làm chủ được tình thế, khiến
Toa Đô tin rằng quân Chiêm đã tan vỡ gần hết, không còn ý chí chống cự. Tăng
Diên bị bắt trói.
Lấy được lòng tin của địch rồi, Bảo Thoát Thốc Hoa lại “hiến kế” cho
Toa Đô, khuyên Toa Đô sai người dụ các châu quận ở Chiêm Thành hàng, còn ông ta
sẽ dẫn Toa Đô “đi bắt quốc chủ, Bổ Đích và đánh thành”. Toa Đô nghe kế, một mặt
sai Lâm Tử Toàn dẫn quân theo Bảo Thoát Thốc Hoa đi bắt vua Chiêm, mặt khác tự
dẫn quân đóng ở tháp Bán Sơn làm hậu viện. Bảo Thoát Thốc Hoa dẫn quân của Lâm
Tử Toàn đến Chà Bàn thì cưỡi voi tìm đường trốn vào núi, bỏ mặc quân Nguyên.
Nhiệm vụ trá hàng, hoãn binh của Bảo Thoát Thốc Hoa đến đây kết thúc với thành
công mỹ mãn.
Trong thời gian khoảng 1 tháng mà Bảo Thoát Thốc Hoa dùng mưu trí để
kéo dài được, thái tử Harijit đã dựng xong một thành gỗ vững chắc ở núi Nha Hầu
với nhiều lớp hầm hào, cạm bẫy vòng ngoài bố trí chờ đón quân Nguyên. Các châu
quận của Chiêm Thành đem quân tới cứu viện, tổng số hơn 2 vạn người. Quân của
các địa khu Indrapura, Amaravati thì đang trên đường tới hội quân. Nước Đại Việt
cũng đem 2 vạn quân, 500 chiến thuyền lên đường sang tiếp viện cho Chiêm Thành
(theo Nguyên sử).
Bảo Thoát Thốc Hoa về rồi, Toa Đô mới nhận ra mình bị mắc lừa, liền tổ
chức tấn công. Quân Nguyên do tướng Trương Ngung chỉ huy tiến thẳng đến thành gỗ
mới xây của quân Chiêm. Trên đường đi hiểm trở, quân Nguyên bị kháng cự dữ dội
từ mọi hướng. Phía Chiêm Thành dùng bẫy đá, gỗ từ trên dốc cao thả xuống, rồi
xua quân mai phục tấn công vào cả hai cánh và phía sau quân Nguyên. Lần này
quân Nguyên đại bại, Trương Ngung mở đường máu cùng một số tàn binh chạy về
doanh trại. Chịu tổn thất nặng nề và vô vọng trong việc tổ chức tấn công căn cứ
vững chắc của người Chiêm Thành, Toa Đô buộc phải chuyển sang chiến lược mới.
Quân Nguyên từ Chà Bàn rút về ven biển Quy Nhơn, dựng lại thành gỗ để
toan đồn trú lâu dài. Toa Đô tung quân đi cướp phá lương thực các nơi để tích
trữ, chia quân phòng giữ và chờ đợi thêm quân tiếp viện từ Nguyên triều. Nhận
thấy thế lực của quân Nguyên đã suy yếu, Chiêm Thành tổ chức tổng tấn công.
Quân Chiêm Thành từ vùng núi kéo xuống kịch chiến với quân Nguyên một trận ở gần
thành gỗ. Lần này, khả năng đánh dàn trận của quân Nguyên lại phát huy tốt,
đánh bại được quân Chiêm Thành. Thái tử Harijit lại phải hạ lệnh rút lui về cố
thủ trong núi. Toa Đô thắng trận nhưng lực lượng chịu tổn thất nặng, cũng đành
cho đóng quân cố thủ trong thành gỗ chờ viện binh.
Quân Chiêm Thành không đủ sức tấn công quân Nguyên trong một trận chiến
quyết định, chuyển sang chiến lược tiêu hao, phát động chiến tranh nhân dân.
Quân dân Chiêm Thành chia làm nhiều toán nhỏ thường xuyên quấy rối, phục kích
những toán quân Nguyên đi kiếm lương thực. Thế quân Chiêm Thành lại dần tăng
lên, thế quân Nguyên ngày càng suy sụp.
Với quyết tâm thôn tính Chiêm Thành, Nguyên triều lại điều động quân tiếp
viện cho Toa Đô. A Lý Hải Nha được phái làm Bình chương hành tỉnh Kinh Hồ -
Chiêm Thành, yêu cầu Đại Việt cho chúng mượn đường đi đánh Chiêm Thành. Đại Việt
liền từ chối. Nguyên triều phải lựa chọn tiếp viện bằng đường biển. Tuy nhiên,
việc phu dịch, thuế má quá khổ sở đã vượt quá sức chịu đựng của dân chúng các
vùng phía nam nước Nguyên mà chúng mới chiếm được từ Nam Tống không lâu. Các cuộc
khởi nghĩa, nổi loạn đã làm gián đoạn kế hoạch tăng viện cho Toa Đô.
Quân Nguyên ở Chiêm Thành không chịu nổi đói khát, cực khổ dẫn tới lớp
chết lớp đào ngũ. Toa Đô nhận thấy tình thế không thể tiếp tục đóng trú tại Quy
Nhơn được nữa, bèn hạ lệnh cho quân lính bỏ thành đem binh thuyền men theo bờ
biển tiến về phía bắc Chiêm Thành, vùng giáp giới với Đại Việt. Toa Đô đánh chiếm
hồ Đại Lãng (thuộc địa khu Indrapura, tức Thừa Thiên-Huế ngày nay) làm chỗ trú
quân. Y sai lính dựng thành bằng gỗ, tự làm đồn điền để tự túc, đồng thời nhiều
phen cho người vượt biển đưa thư xin tiếp viện.
Trong khi đó, đến tận tháng 3.1284 Nguyên triều mới điều động được viện
binh gồm 3 vạn quân và vài trăm thuyền, do A Tháp Hải (Ataqai) chỉ huy. Đội
quân này không biết quân của Toa Đô đã kéo ra bắc nên cứ nhằm vùng gần quốc đô
Chiêm Thành mà tiến. Binh thuyền của A Tháp Hải đến Quy Nhơn vào tháng 4.1284
thì mới biết là Toa Đô đã không còn ở đó. A Tháp Hải cùng đội viện binh bèn
giong thuyền lên phía bắc tìm Toa Đô, dọc đường đi bị bão đánh tan tác gần hết.
Tàn quân từ Chiêm Thành chạy về nước đều vô cùng chán ngán sóng gió phương nam
nhưng lại bị triều đình điều động trở lại Chiêm Thành. Vì vậy, chúng trở nên bất
tuân lệnh, rủ nhau làm thổ phỉ, làm loạn cả một vùng.
Bấy giờ ở Chiêm Thành, Toa Đô hoàn toàn hết hy vọng đánh chiếm đất đai,
thành trì của quân Chiêm mà chỉ có khả năng phòng thủ, cố gắng tự nuôi quân.
Phía bên kia chiến tuyến, vua và thái tử Chiêm Thành cũng không dám mạo hiểm tấn
công quân Nguyên, mà sai sứ đến điều đình xin Toa Đô rút quân về nước. Toa Đô
không đồng ý rút quân mà vẫn cố nấn ná chờ đợi tiếp viện. Toa Đô sai người mang
thư về Nguyên triều xui cất quân đánh Đại Việt trước: "Giao Chỉ liền đất với
các nước Chân Lạp, Chiêm Thành, Vân Nam, Xiêm, Miến, có thể lập tỉnh ngay trên
đất ấy và đóng quân trấn giữ ở ba đạo Việt Lý (1), Trì Châu (2), Tỳ Lan (3), lấy
lương hướng ở đấy cấp cho quân lính, tránh được việc khó nhọc chuyển vận bằng
đường biển".
Hốt Tất Liệt vốn đã có ý lăm le thôn tính Đại Việt từ lâu, nhưng trước
vẫn nghĩ rằng có thể dễ dàng đánh chiếm Chiêm Thành trước để làm bàn đạp đánh tập
hậu Đại Việt. Nay hắn cũng nhận thấy việc đánh Chiêm Thành gặp phải nhiều trở
ngại do đường biển xa xôi, bèn thay đổi kế hoạch. Tháng 8.1284, Hốt Tất Liệt
phong cho con trai thứ 9 của mình là Trấn Nam Vương Thoát Hoan làm nguyên soái,
Bình chương A Lý Hải Nha làm phó tướng chuẩn bị việc đánh Đại Việt để thông đường
trên bộ hòng dễ dàng tiến xuống phương nam và nhiều nước khác.
Cho đến đầu năm 1285, cuộc chiến Nguyên Mông – Đại Việt nổ ra. Toa Đô
chia quân cho Diệp Hắc Mê Thất (Yigmis) đồn trú ở phía bắc Chiêm Thành, còn hắn
dẫn phần nhiều hơn quân lính tiến vào lãnh thổ phía nam Đại Việt, tạo thành gọng
kìm phối hợp với Thoát Hoan và Á Lý Hải Nha ở phía bắc. Vận mệnh của Chiêm
Thành từ đây phụ thuộc vào cuộc chiến đấu của quân dân Đại Việt.
Quốc Huy
(1) : Việt
Lý tức vùng Quảng Trị ngày nay. Ý Toa Đô là chỉ vùng giáp ranh giữa Đại Việt và
Chiêm Thành thời bấy giờ.
(2) Trì Châu (có sách ghi Triều Châu) là đất
thuộc Quảng Đông, Trung Quốc.
(3) Tỳ Lan thuộc đảo Hải Nam, Trung Quốc.
Nhận xét
Đăng nhận xét