Kỳ 41 - NHÀ NGUYÊN HUY ĐỘNG NHIỀU QUÂN HÁN KHAI CHIẾN VỚI ĐẠI VIỆT
Kỳ 41
--------
--------
NHÀ
NGUYÊN HUY ĐỘNG NHIỀU QUÂN HÁN
KHAI CHIẾN VỚI ĐẠI VIỆT
Thành phần quân Nguyên được điều động khá đa dạng về chủng tộc, vùng miền.
Giữ vai trò xung kích chiến lược của đội quân này là những lực lượng kỵ binh
tinh nhuệ người Mông Cổ và các sắc dân thảo nguyên như Khiết Đan, Đột Quyết,
Duy Ngô Nhĩ. Hán quân (quân người miền bắc Trung Quốc ngày nay) chiếm số lượng
đông đảo, là thành phần chủ chốt trong quân Nguyên.
1.
Giặc Nguyên Mông sửa soạn việc
xâm lược Đại Việt
Kể từ sau việc hộ tống Trần Di Ái về Đại Việt làm “An Nam Quốc Vương”
thất bại, quan hệ giữa đế quốc Nguyên Mông và Đại Việt hầu như đã không còn chỗ
cho hòa bình. Thế nhưng bấy giờ do chủ trương tấn công Chiêm Thành trước để từ
đó đánh tỏa ra các nước phương nam nên nước Nguyên cũng chưa vội động binh với
Đại Việt. Trong đó, vùng biên giới phía nam nước Nguyên vẫn ráo riết chuẩn bị
cho việc nam chinh. Đến khi Toa Đô lâm vào tình thế tiến thoái lưỡng nan ở
Chiêm Thành, đưa thư về Nguyên triều xui xuất quân chiếm Đại Việt trước làm bàn
đạp đánh Chiêm Thành thì Nguyên chủ Hốt Tất Liệt liền hạ quyết tâm nhanh chóng
tổ chức một cuộc xâm lược quy mô lớn nhằm vào Đại Việt.
Để xâm lược Đại Việt, Hốt Tất Liệt đã huy động một lực lượng khổng lồ,
quân số lên đến 50 vạn người (theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư). Thành phần quân
Nguyên được điều động khá đa dạng về chủng tộc, vùng miền. Giữ vai trò xung
kích chiến lược của đội quân này là những lực lượng kỵ binh tinh nhuệ người
Mông Cổ và các sắc dân thảo nguyên như Khiết Đan, Đột Quyết, Duy Ngô Nhĩ. Hán
quân (quân người miền bắc Trung Quốc ngày nay) chiếm số lượng đông đảo, là
thành phần chủ chốt trong quân Nguyên. Hán quân khá tinh nhuệ, có cả kỵ binh và
bộ binh, là những lực lượng dày dặn kinh nghiệm trong cuộc chiến Tống – Nguyên.
Nguyên triều điều động người Tống mất nước ở Giang Nam (miền nam Trung Quốc
ngày nay) sung quân, gọi là quân Tân Phụ, những binh lính này cũng chiếm số lượng
khá lớn trong thành phần đội quân xâm lược Đại Việt. Ngoài những thành phần
quân lính nêu trên, còn có các lực lượng kỵ bộ người Đảng Hạng, người Bạch ở
Vân Nam, thủy quân người Lê ở đảo Hải Nam…
Với thành phần lực lượng đa dạng, ưu thế của đội quân Nguyên xâm lược Đại
Việt lần này là có khả năng thích ứng với nhiều điều kiện chiến đấu và thời tiết,
tuy nhiên nhược điểm là không đồng nhất về năng lực chiến đấu. Cùng với điều động
quân lực đông đảo, nhiều vùng trên lãnh thổ đế chế Nguyên Mông dân chúng phải
chịu phu phen, trưng thu lương thực, tiền của đổ vào chiến tranh với mức độ khủng
khiếp. Ngoài việc chuẩn bị về lương thực, Hốt Tất Liệt còn chuẩn bị chu đáo về
thuốc than cho đội quân viễn chinh để phòng binh lính không quen thủy thổ.So với
lần xâm lược năm 1258, lần này quân Nguyên mạnh hơn gấp bội, lại được chuẩn bị
khá đầy đủ về lương thảo, hậu cần.
Nguyên chủ Hốt Tất Liệt đặt rất nhiều tâm huyết vào cuộc xâm lược, vì vậy
mà thành phần tướng lĩnh được phái sang Đại Việt là những chiến tướng thuộc
hàng ưu tú nhất của đế chế Nguyên Mông. Ngày 21.7.1284, vua Nguyên phong cho
hoàng tử thứ 9 là Thoát Hoan (Toghan) làm Trấn Nam Vương, giữ chức thống soái
trong cuộc xâm lược Đại Việt. Tên này là một tướng lĩnh khét tiếng tàn bạo
trong cuộc đàn áp sự phản kháng của người Bạch ở Vân Nam. Phối hợp với Thoát
Hoan là A Lý Hải Nha (Ariq Qaya), giữ chức Bình chương. A Lý Hải Nha là một
danh tướng và cũng là một người nổi tiếng tàn bạo, có nhiều chiến công trong
các trận chiến lớn khi Mông Cổ thôn tính Nam Tống như các trận Đàm Châu, Ngạc
Châu, Tương Phàn… A Lý Hải Nha cũng là tướng chủ chốt trong việc xâm chiếm các
vùng đông nam nước Tống.
Với nhiều chiến công như vậy, A Lý Hải Nha được liệt vào hàng công thần
thứ 3 của Nguyên triều, đứng ngang với Ngột Lương Hợp Thai (Uriangqatai), Bá
Nhan (Bayan), A Truật (Aju) … Trong hàng ngũ tướng lĩnh sang Đại Việt còn có Lý
Hằng (Li Heng), cũng là công thần hàng thứ 3 của triều Nguyên, được phong chức
Tả thừa. Lý Hằng từng có những chiến công lừng lẫy trong những trận chiến nổi
tiếng như đánh bại tướng Văn Thiên Tường nước Tống năm 1277, cùng Trương Hoằng
Phạm chỉ huy 2 vạn truy binh tận diệt 20 vạn người Tống, bức tử Tống Đế Bính tại
hải chiến Nhai Môn năm 1279. Dưới trướng Thoát Hoan ngoài hai tướng kể trên,
còn có hàng loạt tướng lĩnh khác cũng đều liệt vào hàng danh tướng của Nguyên
triều như Ô Mã Nhi (Omar), Phàn Tiếp, Áo Lỗ Xích (Ayuruychi), Lý Bang Hiến, Lý
Quán, Tôn Hựu, Tản Tháp Nhi Đải (Satartai Satardai), Nạp Hải (Naqai), Khoan Triệt
(Koncak) …
Toàn tuyến biên giới Nguyên Mông – Đại Việt từ năm 1282 đến năm 1285 nhộp
nhịp việc sửa sang doanh trại, cầu đường. Hai cụm tiền tiêu chủ yếu của quân
Nguyên ở Vân Nam và Ung Châu hình thành. Nguyên triều gom quân dài từ miền bắc
kéo xuống miền nam để tiến sang Đại Việt. Cùng với đó, Thoát Hoan lệnh cho thuộc
hạ đem thư truyền lệnh cho Toa Đô ở bắc Chiêm Thành dẫn quân đánh thốc lên. Giặc
Nguyên toan tính sẽ dùng ba gọng kìm Vân Nam, Ung Châu, Chiêm Thành để phối hợp
nghiền nát giang sơn Đại Việt trong thời gian ngắn, rồi từ đó đánh tỏa ra khắp
vùng Đông Nam Á.
2.
Đại Việt chuẩn bị nghênh chiến
Trước mưu đồ xâm lược đã quá lộ liễu của giặc Nguyên, vương triều Trần
cùng toàn dân Đại Việt cũng tích cực chuẩn bị cho chiến tranh vệ quốc. Ngay từ
năm 1282, triều đình Đại Việt đã nắm được dã tâm của giặc. Trấn thủ Lạng Giang
là Lương Uất dò biết được quân Nguyên hội quân đông đảo ở gần biên giới, bèn
sai người chạy trạm báo tin về triều rằng quân Nguyên phao tin định mượn đường
nước ta sang đánh Chiêm Thành, thực chất là muốn đánh chiếm Đại Việt trước.
Nắm được tin tức, tháng 11.1282 vua Trần Nhân Tông ngự ở bến Bình Than
(nơi giao nhau giữa sông Đuống và sông Lục Đầu, thuộc Bắc Ninh), tổ chức hội
nghị vương hầu cùng các tướng lĩnh chủ chốt để bàn kế sách bảo vệ đất nước. Hội
nghị Bình Than đã đi đến việc thống nhất nhiều sách lược. Trong đó, quan trọng
nhất là quan quân đã được xác định tinh thần quyết chiến, không cho giặc lấy cớ
mượn đường để tiến vào nước ta. Cùng với đó là những kế hoạch điều binh trấn giữ
các nơi trọng yếu, những việc chuẩn bị khí giới, kho tàng, điều động dân đinh,
binh lính sẵn sàng chiến đấu…
Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư trước kia phạm tội gian dâm với công chúa
Thiên Thụy bị tước hết chức vị và gia sản, trong hội nghị được vua ân xá, ban
chức Phó đô tướng quân, trở thành một trong những tướng lĩnh chủ chốt trong
kháng chiến về sau. Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản còn ít tuổi không được dự bàn
cơ mưu, bèn tự mình về nhà điều động gia đinh, mộ binh ngàn người, tự bỏ tiền
tư gia để đóng thuyền, sắm sửa vũ khí, thao luyện binh sĩ chuẩn bị chống giặc.
Trường hợp của Trần Quốc Toản cũng là một điển hình của giới quý tộc đương thời.
Các vương hầu sẵn có tiền của, thế lực đã tự chiêu mộ quân lính chiến đấu bên cạnh
quân chính quy của triều đình. Quân vương hầu là lực lượng đã có sẵn từ trước,
nay với tình hình mới thì quy mô của những đội quân này càng tăng lên nhiều lần,
trở thành lực lượng quan trọng trong kháng chiến.
Nhân sự đầu não để chỉ huy quân đội cũng được vua Trần cân nhắc lựa chọn
những người có năng lực nhất để bổ dụng các trọng trách. Cuối năm 1282, Chiêu
Minh Vương Trần Quang Khải được tiến phong chức Thượng tướng Thái sư, là chức
quan đứng đầu cả hai ban văn võ. Đến cuối năm 1283, vua Trần Nhân Tông cho hội
quân các vương hầu tổ chức tập trận quy mô lớn, rồi nhân đó bổ dụng Hưng Đạo
Vương Trần Quốc Tuấn chức Quốc công Tiết chế, nắm quyền toàn bộ quân đội. Như vậy
là, trong một triều đình lại có cả hai vị quan về chức vụ đều là tổng chỉ huy
quân đội. Trên thực tế thì Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn (thường gọi là Trần
Hưng Đạo) là người nắm quyền chỉ huy cao nhất.
Sử cũ kể lại rằng bấy giờ Trần Quang Khải vốn thường nghi kỵ và không
có thiện cảm với Trần Quốc Tuấn, vì Quốc Tuấn là con của An Sinh Vương Trần Liễu.
Trước kia, Trần Thái Tông lấy vợ của Trần Liễu đang mang thai làm vợ mình, đề
phòng vua bị hiếm muộn sẽ lập đứa bé làm thái tử. Trần Liễu mất vợ sinh thù hận,
khởi binh chống lại vua Trần Thái Tông bị thất bại, được Thái Tông tha nhưng
lòng vẫn không phục, thường dạy Quốc Tuấn phải nuôi chí phục thù. Bởi vậy mà Trần
Quốc Tuấn thường bị các thân vương khác nghi kỵ mặc dù ông là một kỳ tài và hết
mực trung thành với nhà vua. Nay trước tình hình mới đòi hỏi nội bộ phải đồng
lòng tin tưởng lẫn nhau, hai nhân vật lớn của triều đình đã chủ động “làm thân”
với nhau.
Một hôm Trần Quốc Tuấn từ Vạn Kiếp về kinh, Trần Quang Khải đã cùng Quốc
Tuấn xuống thuyền chơi cả ngày. Quốc Tuấn biết Quang Khải có tính ngại tắm gội
bèn cho nấu nước thơm xin tắm cho Quang Khải, hai người cười nói vui vẻ.Tình cảm
giữa hai người kể từ hôm đó mà khăng khít, nhờ vậy mà hai chi họ Trần (chi họ
Trần Liễu và chi họ Trần Thái Tông) cũng không còn nghi kỵ lẫn nhau. Điều này
có tác động rất lớn đến sự đoàn kết của toàn bộ triều đình. Đó cũng là nền tảng
tiến tới đoàn kết toàn dân tộc, chuẩn bị cho cả nước bước vào cuộc chiến cam
go.
Quốc Huy
Nhận xét
Đăng nhận xét