Kỳ 33 - DÙ CỰC THÂM ĐỘC, TRUNG QUỐC VẪN “CHÀO THUA” TRƯỚC DÂN TỘC VIỆT
Kỳ 33
--------
--------
DÙ CỰC THÂM ĐỘC
TRUNG QUỐC
VẪN “CHÀO THUA” TRƯỚC DÂN TỘC VIỆT
Là một trong những chiêu bài thâm độc nhất của phong kiến Trung Quốc
nhưng chính sách thâm độc này vẫn thất bại trước tinh thần yêu nước và lòng
đoàn kết của nhân dân ta.
Chính sách ràng buộc là chiêu bài tối thâm độc, từ lâu đã được các triều
đại phong kiến Trung
Quốc áp dụng đối với ngoại tộc. Những chiêu bài chủ yếu của chính sách
này
phải kể tới hàng loạt các thủ đoạn như trói buộc, giam cầm, khống chế,
dụ dỗ...
1.
Chiêu
bài đối nội tinh vi của phong kiến Trung Hoa
Kể từ khi nhà Tần thành lập, tộc người Hoa Hạ ở Trung Nguyên ngày càng
xâm lấn nhiều vùng biên cương của các dân tộc thiểu số.
Tuy nhiên, một số thủ lĩnh bộ tộc thiểu số có ý đồ ly khai để thoát ly
sự thống trị của chính quyền trung ương. Đứng trước tình hình này, triều đình
phong kiến Trung Hoa đã khởi xướng và áp dụng chính sách ràng buộc.
Bởi vậy, chính sách bắt đầu manh nha từ khi nhà Tần thống nhất Trung
Hoa và tiến hành phân chia quận huyện. Thủ đoạn "ràng buộc" này được
duy trì liên tục đến thời Tống – Nguyên và dần biến đổi theo các chế độ chính
trị ở những triều đại sau đó.
Đối với Trung Hoa nói riêng, chính sách ràng buộc trước nhất để giải
quyết mối quan hệ giữa dân tộc thiểu số địa phương và chính quyền trung ương.
Cụ thể là ở các khu vực biên cương, triều đình sẽ thi hành cơ cấu chính
trị đặc thù trên cơ sở duy trì cơ cấu quản lý cũ ở các địa phương này bằng cách
không thay đổi tộc trưởng hay quan địa phương.
Bản chất thâm độc của chính sách ràng buộc nằm ở chỗ, mặc dù không thay
đổi vị trí của những người đứng đầu tại địa phương, nhưng chính quyền phong kiến
sẽ mua chuộc và điều khiển họ bằng điều kiện tư lợi.
Trên thực tế, triều đình phong kiến Trung Hoa không hề chịu thiệt khi
thi hành chính sách "ràng buộc". Mặc dù phải bỏ ra vài tước phong, chức
quan và chút bổng lộc, nhưng thứ họ thu về lại là số cống phẩm khổng lồ hằng
năm và sự ổn định ở biên cương.
Hán triều là triều đại chính thức đầu tiên áp dụng "ràng buộc"
như một chính sách thực sự.
Triều đình tiến hành thủ đoạn này bằng cách phong hầu, phong vương cho
các thủ lĩnh bộ tộc, dùng vinh hoa và quyền lực để đổi lấy sự phục tùng của
chính những người từng bị coi là mầm mống phản loạn.
Trong suốt hàng ngàn năm lịch sử Trung Hoa, triều đại "cao
tay" nhất trong việc tiến hành chính sách thâm độc này phải kể tới Đường
triều. Không chỉ "ràng buộc" về chính trị, nhà Đường còn thi
hành trói buộc trên nhiều phương diện như kinh tế, văn hóa...
Chính sách ràng buộc của Đường triều lấy chính trị làm mũi nhọn tiến
phong, tiến hành theo các khu vực phân chia, sau đó đánh xuống các châu, huyện.
Khi chính trị biên cương ổn định, về phương diện kinh tế, triều đình sẽ
xúc tiến mậu dịch với các dân tộc thiểu số, đồng thời tiến hành giao lưu,
"khai sáng" về văn hóa.
Đến thời nhà Tống, chính sách ràng buộc căn bản vẫn lấy của nhà Đường
làm trụ cột, nhưng tiến thêm một bước, chủ yếu hướng vào việc thiết trí, giám
sát.
Chính sách này dần biến đổi bắt đầu từ thời nhà Nguyên do chế độ thổ
ty. Cũng kể từ đây, hình thức "ràng buộc" liên tục thay đổi vì
những biến đổi về quá trình chính trị.
2.
Cái kết
ê chề cho thủ đoạn "ràng buộc" thâm độc
Không chỉ áp dụng với các dân tộc thuộc Trung Hoa, các triều đại phong
kiến còn thực hiện "ràng buộc" đi cùng với hình thức xâm lược. Vào
thời Bắc thuộc, nước ta cũng trở thành nạn nhân của thủ đoạn thâm độc này.
Vì đặc điểm văn hóa- xã hội ở đất Âu Lạc khác với Trung Nguyên, nên sau
khi xâm lược nước ta, chính quyền phương Bắc không thể trực tiếp tiến hành lối
thống trị kiểu phong kiến tập quyền mà phải dùng chính sách ràng buộc.
Đối tượng "ràng buộc" của bọn quan lại phong kiến Trung Hoa
chủ yếu là các phần tử quý tộc, các thủ lĩnh đã được phân hóa trong lòng công
xã như Lạc hầu, Lạc tướng…
Các quý tộc này một mặt được phong chức tước, mặt khác lại bị chính quyền
đô hộ dùng áp bức quân sự và chính trị để ép cống nạp.
Cùng với chính sách đồng hóa, chính quyền phương Bắc áp dụng "ràng
buộc" để gây chia rẽ nội bộ dân tộc của các nước bị xâm lược, đồng thời
thu về lợi nhuận kinh tế từ những vật phẩm cống nạp.
Vậy nhưng, những thất bại đau thương của chính quyền phương Bắc trước
nước ta đã đủ để chứng minh:
Triều đình phong kiến Trung Hoa chỉ có thể áp dụng thành công chính
sách này đối với những dân tộc biên thiểu số trong lãnh thổ nước mình, chứ
không thể khuất phục một dân tộc yêu nước.
theo Trí Thức Trẻ
Nhận xét
Đăng nhận xét