Bậu ơi xin chớ giả đò
ngó lơ!
Tiếng Việt phương Nam
(NXB Trẻ) vừa được ra mắt bạn đọc cả nước. Đây là cuộc trò chuyện hấp dẫn, đặc
sắc của TS Trần Thị Ngọc Lang, một người con Nam Bộ đã có hơn 30 năm viết và kể
về phương ngữ Nam Bộ.
Ngay cả với những ai là
dân lục tỉnh, vẫn đang nói đang viết tiếng Nam rặt, khi đọc cuốn sách này chắc
chắn sẽ nhận được nhiều điều bất ngờ thú vị từ những khác biệt Nam - Bắc trong
sách vở, trong lời ăn tiếng nói hằng ngày, được lý giải một cách khoa học, có hệ
thống và thuyết phục.
Khám phá những khác biệt
Tiếng Việt phương Nam sẽ
bày ra cho chúng ta một bức tranh toàn cảnh với tám kiểu khác biệt từ vựng - ngữ
nghĩa dựa trên sự so sánh phương ngữ Nam Bộ và phương ngữ Bắc Bộ về âm (đồng
âm/gần âm - biến âm/khác âm) và về nghĩa (đồng nghĩa/ gần nghĩa/ khác nghĩa).
Cùng đi khám phá những
khác biệt này, bạn sẽ biết đâu là nhóm từ ngữ "riêng một góc trời": từ
những danh từ chỉ có trong thiên nhiên, trong đời sống và trong sinh hoạt kinh
tế - xã hội ở vùng đất này, đến những tính từ, trạng từ, từ láy, từ chỉ mức độ
cùng những kiểu nói như trùm mền, chìm xuồng, đắp chiếu, sập tiệm, treo giàn bếp,
thí cô hồn, chợ chồm hổm, dân bụi đời... đã làm nên "đặc sản" Nam Bộ.
Và bạn sẽ biết được từ
đâu mà sinh ra những nóp, lọp, tha la, cà tăng, cà ràng, mình ên... và những
khìa, xí muội, xí quách, xí ngầu, xì thẩu, xì dách, hên xui...
Bạn sẽ "ngạc nhiên
chưa" khi biết được những cặp từ như vào và vô, ngấy và ngán, xem và coi,
van xin và năn nỉ, ăn khao và ăn mừng... thoạt nghe rất giống nhau về nghĩa mà
vẫn có lắm cái khác nhau!
Lại có những từ ngữ toàn
dân được ghép đồng nghĩa đẳng lập nhưng lại dùng tiếng Nam trước tiếng Bắc sau:
dơ bẩn, đau ốm, lời lãi, bao bọc, hư hỏng, dư thừa, mai mối, bồng bế, hăm dọa...
Và ngược lại, tiếng Bắc trước tiếng Nam sau: thóc lúa, giẫm đạp, nông cạn, lừa
gạt, sắc bén, lau chùi, chăn mền, đùa giỡn, thuê mướn...
Và còn nữa, tại làm sao ở
miền Nam lại có lắm thứ "cà" đến vậy: cà chớn, cà rỡn, cà nhắc, cà
nhót, cà thọt, cà lăm, cà nhỏng, cà tưng, cà rịch cà tang, cà xịch cà đuội, cà
trật cà vuột...
Hiểu thêm, yêu thêm đất
và người Nam Bộ
Cái làm nên giá trị và sức
mạnh của Tiếng Việt phương Nam chính là cách tiếp cận phương ngữ không chỉ bằng
con đường ngữ học dựa trên phương pháp phân tích ngữ nghĩa và phương pháp thống
kê, mà còn dựa trên phân tích các yếu tố tự nhiên, văn hóa và tâm lý - xã hội nữa.
Những câu chuyện về cách
xưng hô, về nhóm từ ngữ liên quan đến sông nước, về các tổ hợp tính từ chỉ mức
độ cao, về từ láy và ngữ khí từ trong phương ngữ Nam Bộ, đặc biệt là những
trang viết về ngôn ngữ và phong cách Hồ Biểu Chánh, Sơn Nam, Nguyễn Ngọc Tư -
ba tên tuổi tiêu biểu cho ba thế hệ cầm bút miền Nam, khiến cho chúng ta không
chỉ biết thêm mà còn hiểu thêm, yêu thêm đất phương Nam và người phương Nam.
Tiếng rao lạ lắm, không
chỉ rao bán mà còn rao mua, không chỉ rao hàng mà còn rao dịch vụ, không chỉ
rao mà còn... như hò nữa!
Xưng hô lạ lắm, ưa gọi
nhau về phía bên ngoại (cậu ơi mua vé số đi/ dì ơi có bán bánh không...); thích
dùng vai + thứ và kèm theo tên riêng, chức vụ, hình dạng (bác Hai, chú Năm,
thím Tư, thầy Thông ngôn, bà phủ Ngọc, ông Hội đồng Tần...); thường rút gọn
thành những ổng, bả, cổ, ảnh, chỉ, ẻm, thằng chả, con mẻ...
Và ăn ở cũng lạ lắm, giản
dị, chân chất, phóng khoáng, hào sảng; nói năng hướng đến sự thân mật gần gũi
dù không phải họ hàng, thân tộc; ứng xử hướng đến sự thân thiện, bình đẳng:
"Một nguyên thủ quốc gia hay một người đạp xích lô, chạy xe ôm, bán vé số...
khi vào đình, chùa, đến nhà thờ, đi lễ hội, làm lễ thành hôn trước bàn thờ gia
tiên hay đứng trước linh cữu của cha mẹ... đều phải chung một nghi lễ. Ông bộ
trưởng cũng phải vái lạy kẻ ăn mày nếu như người ta đến thắp nhang viếng cha (mẹ)
mình"!
Sách này, do vậy, không
chỉ là cẩm nang hữu ích cho những ai đang học tập, giảng dạy, nghiên cứu về tiếng
Việt, những ai đang sống bằng nghề nói năng, viết lách với tiếng Việt, mà còn cần
thiết cho mỗi chúng ta đang đọc, đang nói, đang viết mỗi ngày. Vì "ngó
lơ" sao được, khi ngôn ngữ cũng chính là cuộc sống!
Chỗ kêu hộp quẹt, nơi gọi
bao diêm
Cùng một sự vật mà hai
miền lại nhìn thấy khác nhau: hộp quẹt - bao diêm, kiếng mát - kính râm, dầu
thơm - nước hoa, vải sọc - vải kẻ, mít ướt - mít mật, bánh tráng - bánh đa...
Có khi nơi này dùng cả
hai từ, nhưng nơi kia chỉ dùng có một thứ. Chẳng hạn, ở miền Nam người ta dùng
cả hai yếu tố: màn/mùng, mủ/nhựa, thuốc tẩy/thuốc xổ... thì ở miền Bắc chỉ gặp
cái thứ nhất. Trái lại, miền Bắc có đủ nón/mũ, bông/hoa, cây/gỗ, dư/thừa, cạn/nông,
viết/bút, kêu/gọi, lạnh/rét, nóng/sốt... nhưng người Nam thường chỉ xài yếu tố
đầu tiên.
TTO
Nhận xét
Đăng nhận xét