THIÊN TÀI QUÂN SỰ CỦA HOÀNG ĐẾ QUANG TRUNG
10 ĐIỂM NỔI BẬT VỀ THIÊN TÀI QUÂN SỰ
CỦA HOÀNG ĐẾ QUANG TRUNG
Nguyễn Huệ
(1753 - 1792), Anh hùng dân tộc, nhà quân sự kiệt xuất, danh tướng bách chiến
bách thắng.
Ông là một
thiên tài quân sự, một trong những tướng lĩnh tài giỏi bậc nhất của dân tộc Việt
Nam.
Từ một thủ
lĩnh chiến đấu dưới cờ của anh trai mình là Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ đã trở
thành lãnh tụ kiệt xuất của phong trào Tây Sơn, chăm lo xây dựng quân đội Tây
Sơn thành quân đội tinh nhuệ, thiện chiến.
Qua 21 năm
chiến đấu, Nguyễn
Huệ cùng quân đội Tây Sơn lập nên những kỳ tích oanh liệt như:
Chiến thắng
Phú Yên (1775), ba lần đánh tan quân Nguyễn ở Gia Định (1777, 1782 và 1783), thắng
trận Rạch Gầm - Xoài Mút (19-1-1785);
Đánh đổ các tập
đoàn phong kiến: chúa Nguyễn ở Đàng Trong, chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, chấm dứt cảnh
đất nước bị chia cắt trên 200 năm; quét sạch hơn 29 vạn quân xâm lược Mãn Thanh
(1789), thống nhất đất nước.
Để tìm hiểu
thiên tài quân sự của ông, chúng ta có thể thấy một số nét cơ bản sau đây:
1.
Một
là, kết hợp quân sự và chính trị:
Nguyễn Huệ
cũng như người anh là Nguyễn Nhạc, là một nhà quân sự biết kết hợp khéo léo
chính trị và quân sự, coi chính trị và quân sự là hai bộ phận hữu cơ của một
nhiệm vụ: Đánh đổ chế độ áp bức Nguyễn - Trịnh.
Mọi người đều
biết rằng năm 1771 khi dựng cờ nghĩa ở ấp Tây Sơn, các lãnh tụ của nghĩa quân
tuyên bố: Nghĩa quân phải đứng lên là để đánh đổ hà chính của Trương Phúc Loan
và tôn phù hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương lên làm chúa.
Thái độ của
nghĩa quân Tây Sơn kết quả đã phân hóa sâu sắc hàng ngũ chúa Nguyễn, làm cho nội
bộ chúa Nguyễn chia ra làm hai phái lớn: Phái cố bám lấy Trương Phúc Loan và phái
ủng hộ Nguyễn Phúc Dương chống lại Trương Phúc Loan.
Ủng hộ Nguyễn
Phúc Dương về danh nghĩa là ủng hộ một phe phái của chúa Nguyễn, nhưng về thực
tế là ủng hộ nghĩa quân Tây Sơn do Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ đứng đầu.
Lực lượng của
chúa Nguyễn (cũng tức là lực lượng của Trương Phúc Loan) vốn đang yếu, vì vậy lại
càng thêm yếu, và lực lượng của nghĩa quân Tây Sơn vốn đang phát triển, vì vậy
lại càng có điều kiện phát triển thuận lợi.
Năm 1786,
Nguyễn Huệ mang quân ra đánh Bắc Hà, ông đưa ra khẩu hiệu "Phù Lê diệt Trịnh".
Sự thực thì vua Lê lúc này cũng thối nát như chúa Trịnh.
Nhưng, khẩu
hiệu "Phù Lê diệt Trịnh" đã chia rẽ đối phương, trung lập được họ Lê
và cô lập họ Trịnh đến triệt để.
Nhờ vậy, khi
tiến quân ra Bắc, Nguyễn Huệ đã đánh bại quân Trịnh một cách khá dễ dàng. Sau
khi đánh đổ họ Trịnh, Nguyễn Huệ thực sự làm chủ Bắc Hà.
Khi Nguyễn Huệ
bảo Nguyễn Hữu Chỉnh: "Ta mang vài vạn quân ra đây, đánh một trận lấy được
Bắc Hà. Vậy thì một thước đất, một người dân bây giờ không phải của ta thì của
ai vào đấy nữa? Dẫu ta muốn xưng đế, xưng vương chi chi, ai còn dám làm gì ta đặng?"
là ông đã nói ra một sự thật.
Nguyễn Huệ
đánh chiếm được Bắc Hà, nhưng về mặt pháp lý, ông vẫn chưa dám tự nhận là chủ Bắc
Hà, là vì ông biết ở Bắc Hà, trong nhân dân và nho sĩ vẫn còn có nhiều người
luyến tiếc nhà Lê.
Năm 1787 sau
khi sai Vũ Văn Nhậm đem quân Tây Sơn ra Bắc giết Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Huệ vẫn
để cho Lê Duy Cẩn làm giám quốc bù nhìn.
Nguyễn Huệ chỉ
chính thức lên ngôi hoàng đế thay nhà Lê làm chủ Bắc Hà khi Lê Chiêu Thống đã
công nhiên rước quân Thanh vào xâm lược Việt Nam.
Nguyễn Huệ quả
là nhà quân sự biết chú ý đến chính trị, biết kết hợp tài tình chính trị và
quân sự, biết đem chính trị phục vụ quân sự, biết dùng quân sự để đạt mục đích
chính trị.
Ông đánh đâu
thắng đấy, và thường rất nhanh, một phần là vì ông khéo kết hợp chính trị và
quân sự.
Hoàng đế Quang Trung -(Ảnh minh họa: Internet).
2.
Hai
là, đánh vào mục tiêu chiến lược trọng yếu nhất:
Trong các hoạt
động quân sự, Nguyễn Huệ biết tập trung lực lượng đánh vào chỗ trọng yếu nhất của
đối phương, do đó ông giải quyết chiến dịch rất gọn gàng, nhanh chóng.
Năm 1777,
Nguyễn Huệ mang quân vào Gia Định, chỉ một trận ông đã đánh tan quân của Lý
Tài, đuổi Nguyễn Phúc Dương chạy về Trà Tân.
Cũng năm
1777, chỉ một trận, Nguyễn Huệ hạ được Ba Vạc, bắt sống được Duệ Tôn và Nguyễn
Phúc Dương ở Long Xuyên.
Năm 1784, 300
chiến thuyền và 50.000 quân Xiêm đã bị Nguyễn Huệ phá gọn trong một trận ở Rạch
Gầm - Xoài Mút.
Đến trận đại
phá 29 vạn quân Thanh hồi đầu năm 1789 thì thật là kỳ lạ.
Cuối năm 1788
lộ quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị chỉ huy đã chiếm Thăng Long. Tiền đội quân Thanh
thọc sâu đến tận Hà Nam, còn ở Hà Hồi, Ngọc Hồi, Nhân Mục, Khương Thượng, Đại
áng, Yên Quyết, quân Thanh đều dựng nên những đồn rất kiên cố để che chở cho
Thăng Long tại mặt nam và mặt tây.
Đạo quân Vân
Quý do đề đốc Ô Đại Kinh chỉ huy cũng đã vượt Tuyên Quang và đến cuối năm 1788
đã đến đóng ở Phú Thọ, Sơn Tây…
Để phá 29 vạn
quân xâm lược, Nguyễn Huệ đã vận dụng một chiến lược khác hẳn chiến lược của Lý
Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi.
Chiến lược của
Nguyễn Huệ không phải là chiến lược phòng ngự tích cực của Lý Thường Kiệt, cũng
không phải là chiến lược kháng chiến lâu dài của Trần Hưng Đạo hay của Lê Lợi,
mà là chiến lược đánh nhanh thắng nhanh.
Đây là một
chiến lược được vận dụng đầu tiên trong lịch sử Việt Nam đối với quân xâm lược
phương Bắc. Tình thế buộc Nguyễn Huệ phải đánh nhanh thắng nhanh.
Sau khi cho
Tôn Sĩ Nghị thống suất 29 vạn quân theo đường bộ sang đánh Việt Nam, vua Càn
Long nhà Thanh còn định cho thủy quân ở Phúc Kiến và Quảng Đông vượt biển đánh
vào Thuận Hóa và Quảng Nam.
Hồi cuối năm
1788 và đầu năm 1789, thủy quân Thanh chưa xuất phát. Nếu thủy quân Thanh xuất
phát đánh vào Thuận Quảng thì quân Tây Sơn của Nguyễn Huệ bị kẹp vào giữa.
Lúc ấy những
kẻ theo chúa Nguyễn ở Đàng Trong và những kẻ theo vua Lê ở Đàng Ngoài sẽ nổi
lên làm nội ứng cho quân Thanh, lúc ấy quân Tây Sơn sẽ bị hãm vào một tình thế
rất gay go, phức tạp: Nếu không sớm bị tiêu diệt, thì cũng phải rút về thủ hiểm
ở núi rừng.
Muốn khỏi phải
đối phó một lúc với hai mặt trận (mặt trận quân bộ của Tôn Sĩ Nghị ở Bắc và mặt
trận do thủy quân Mân Việt tạo ra ở miền Nam), Nguyễn Huệ phải dốc lực lượng
tiêu diệt 29 vạn quân của Tôn Sĩ Nghị cho nhanh.
29 vạn quân
này không phải đóng ở một nơi, mà đóng ở nhiều nơi: Chúng đóng ở Hải Dương, ở
Thị Cầu, ở Phú Thọ, ở Sơn Tây, ở Thăng Long, ở Phú Xuyên, ở Hà Nam. Tiêu diệt
các đạo quân Vân Quý đóng ở Sơn Tây, Phú Thọ thì tương đối dễ dàng.
Tiêu diệt
cánh quân Thanh đóng ở Hải Dương cũng không có gì khó khăn cho lắm. Nhưng tiêu
diệt được các căn cứ quân Thanh ở Phú Thọ, Sơn Tây, Hải Dương, chưa phải là đã
lay chuyển nổi căn cứ quân Thanh ở Thăng Long.
Căn cứ chính
của quân Thanh còn, thì từ đây Tôn Sĩ Nghị vẫn có thể tung quân đi cứu viện các
nơi. Chiến tranh như vậy sẽ kéo dài. Và hễ chiến tranh kéo dài, thì thủy quân
Mân Việt của nhà Thanh vẫn có đủ thì giờ đổ bộ vào Thuận Quảng, quân Tây Sơn của
Nguyễn Huệ vẫn có thể bị kẹp vào hai gọng kìm nguy hiểm…
Nguyễn Huệ đã
táo bạo chọn Thăng Long làm mục tiêu cuộc tấn công có tính chất quyết định. Muốn
đánh vào Thăng Long và giành được thắng lợi phải có ít nhất hai điều kiện:
Một là những
tin tức tình báo rất đầy đủ về quân Thanh, hai là quyết tâm chiến đấu của quân
đội đến cao độ. Hai điều kiện này, cuối năm 1788, Nguyễn Huệ có đầy đủ cả.
Khi gặp bọn
Ngô Thì Nhậm ở núi Tam Điệp, Nguyễn Huệ có nói: "Nay ta đến đây, tự đốc việc
quân, đánh hay giữ đã có kế cả rồi, chỉ trong mười ngày nữa, thế nào ta cũng quét
sạch quân Thanh…".
Khi cho ba
quân ăn tết trước ở núi Tam Điệp, Nguyễn Huệ lại tuyên bố:
"Nay hãy
tạm ăn Tết Nguyên đán trước. Đợi đến sang xuân ngày mồng 7 vào Thăng Long lại mở
tiệc ăn mừng. Các ngươi cứ ghi lấy lời nói của ta xem có sai không?". Thực
tế đã chứng minh lời vua Quang Trung là hoàn toàn chính xác.
3.
Ba
là, hành động bất ngờ:
Trong các hoạt
động quân sự, Nguyễn Huệ luôn luôn giữ vững nguyên tắc là không bao giờ làm cái
gì mà quân địch có thể nghĩ là mình định làm như thế.
Có nghĩa là đối
với quân địch phải luôn luôn có hành động bất ngờ, đừng để cho quân địch có thể
đoán trước được hành động của mình.
Đối với quân
địch càng hành động bất ngờ được bao nhiêu thì càng có điều kiện thắng lợi bấy
nhiêu. Nguyên tắc này được các tướng lĩnh của quân đội Tây Sơn quán triệt sâu sắc.
Năm 1787,
quân Tây Sơn do Vũ Văn Nhậm chỉ huy ra Bắc đánh Nguyễn Hữu Chỉnh.
Tướng của
Nguyễn Hữu Chỉnh là Nguyễn Như Thái và Ninh Tốn đem quân tiến vào Thanh Hóa đón
đánh quân Tây Sơn.
Qua bến đò
Gián Khẩu, Nguyễn Như Thái sai quân đóng giữ bến Gián, rồi tự dẫn đại quân theo
đường tắt đến bến đò Nghệ (thuộc trại Nghệ, làng Đại Hữu, huyện Gia Khánh, tỉnh
Ninh Bình) để đánh vào lưng quân Tây Sơn.
Quân của Như
Thái mới đến làng Điểm Xá (thuộc huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình) thì gặp quân
Tây Sơn. Như Thái bị quân Tây Sơn đánh bại phải quay trở lại.
Trong khi Như
Thái hành quân, thì quân của Vũ Văn Nhậm đã vượt núi Tam Điệp. Quân của Như
Thái chưa đến núi Tam Điệp đã thấy quân Tây Sơn hiện ra trước mặt.
Hoảng sợ, Như
Thái vỗ ngựa kêu to: "Chết rồi! Sao chúng nó nhanh như thế?!". Quân
Tây Sơn vượt dãy Tam Điệp vào lúc Nguyễn Như Thái không ngờ, cho nên quân của
Như Thái bị quân Tây Sơn đánh bại và Như Thái bị quân Tây Sơn bắn chết ngay tại
trận.
Cuối năm Mậu
Thân (1788) và đầu năm Kỷ Dậu (1789), Tôn Sĩ Nghị bố trí sự phòng thủ Thăng
Long khá cẩn thận.
Ở gần huyện
Phú Xuyên, trên đường Hà Nội - Hà Nam, quân Thanh có đồn Hà Hồi, sau đồn Hà Hồi
có đồn Ngọc Hồi cách Hà Nội mười hai cây số.
Đồn Ngọc Hồi
là một vị trí rất kiên cố, có một lực lượng quan trọng đóng giữ. Sau đồn Ngọc Hồi
còn có đồn Văn Điển, Khương Thượng, đồn Nhân Mục, Yên Quyết.
Như vậy là ở
phía tây và phía nam thành Thăng Long, quân Thanh đã phòng phủ khá vững vàng.
Trái lại, ở
phía đông và phía bắc thành Thăng Long, quân Thanh hình như không lập phòng tuyến
nào, hay có lập phòng tuyến, nhưng không đáng kể.
Tôn Sĩ Nghị
cho phòng thủ ở phía tây và phía nam, mà ít chú ý phòng thủ ở phía bắc và phía
đông thành Thăng Long, vì y cho rằng nếu quân Tây Sơn có ra đánh Thăng Long,
thì họ cũng chỉ có thể đánh ở phía tây và phía nam mà thôi. Vì vậy, Tôn Sĩ Nghị
bố trí phòng thủ rất kiên cố ở phía tây và phía nam.
Do đã bố trí
phòng thủ cẩn thận ở phía tây và phía nam, Tôn Sĩ Nghị lại nghĩ rằng quân Tây
Sơn không thể đánh vào Thăng Long từ phía tây và phía nam nhất là trong dịp Tết
Nguyên đán năm Kỷ Dậu.
Cuối năm Mậu
Thân khi các quan nhà Lê xin Tôn Sĩ Nghị xuất quân đánh quân Tây Sơn, Sĩ Nghị
cười và nói: "Hết năm đến nơi rồi. Việc gì phải hấp tấp như thế. Không cần
phải đánh vội. Quân giặc đang gầy, ta đang nuôi cho chúng béo để cho chúng tự đến
dâng thịt".
Khi nói câu
này, Tôn Sĩ Nghị tỏ ra không tin rằng quân Tây Sơn lại có thể cất quân vào dịp
Tết Nguyên đán để đánh vào một hệ thống đồn lũy phòng thủ rất kiên cố mà quân
Thanh đã dựng lên ở phía tây và phía nam thành Thăng Long.
Cho nên,
trong lúc quân Tây Sơn đã hạ đồn Hà Hồi, rầm rộ tiến đánh đồn Ngọc Hồi thì Tôn
Sĩ Nghị vẫn ung dung ngồi thưởng xuân ở Tây Long cung cùng với một bầy tướng
lĩnh cũng chủ quan khinh địch như hắn.
Đầu năm 1789,
Nguyễn Huệ đã đại phá 29 vạn quân Thanh trong một trận, một phần là vì ông đã
biết triệt để vận dụng nhân tố bất ngờ khiến cho quân Thanh trở tay không kịp.
4.
Bốn
là, chọn thời gian và không gian thích hợp:
Nguyễn Huệ là
một nhà quân sự thiên tài biết chọn thời gian và không gian thuận lợi nhất để
đánh địch.
Năm 1784,
theo yêu cầu của Nguyễn Phúc Ánh, vua Xiêm là Chất Tri cho tướng Chiêu Tăng và
Chiêu Sương mang 50.000 quân và 300 chiến thuyền sang Gia Định giúp Phúc Ánh.
Quân Xiêm
đánh chiếm Rạch Giá, Ba Thác, Trà Ôn, Mân Thít, Sa Đéc. Phò mã Tây Sơn là
Trương Văn Đa mang quân đón đánh, bị quân Xiêm đánh cho đại bại.
Được tin quân
Xiêm vào xâm lược Gia Định, Nguyễn Huệ từ Quy Nhơn lại mang quân vào Nam.
Ông biết rằng
phải làm cho quân Xiêm lộ rõ bộ mặt xâm lược của chúng, khiến cho nhân dân chán
ghét chúng, thì mới có thể tiêu diệt chúng được.
Vì vậy, Nguyễn
Huệ không đánh quân Xiêm, mà chỉ vừa đánh vừa lùi. Quân Xiêm thấy chúng đánh
đâu thắng đấy, sinh ra kiêu ngạo.
Chúng ỷ thế cậy
đông đi đến đâu cướp bóc của nhân dân đến đấy. Chúng gây nhiều sự tàn ác làm
cho nhân dân đều oán giận, và chỉ chờ mong quân Tây Sơn đến để tiêu diệt.
Khi nhân dân
chán ghét và căm thù quân Xiêm, Nguyễn Huệ mới nhử chúng vào Rạch Gầm rồi thả
phục binh ra tiêu diệt chúng.
Chỉ một trận
Rạch Gầm, năm vạn quân Xiêm và 300 chiến thuyền bị quân Tây Sơn phá sạch. Quân
Xiêm vẻn vẹn chỉ còn lại vài nghìn tên nhịn đói nhịn khát theo đường rừng chạy
trốn về nước.
Cuối năm Mậu
Thân (1788), quân Thanh tiến vào Việt Nam xâm lược. Các cựu thần nhà Lê và nhiều
nho sĩ chạy theo giặc, chỉ đường cho giặc đánh quân Tây Sơn.
Trước tình
hình này Ngô Thì Nhậm chủ trương phải rút lui về giữ dãy Tam Điệp chờ Nguyễn Huệ
ra sẽ đối phó với quân Thanh.
Tướng Phan
Văn Lân khinh suất, nhất định đòi mang quân ra chặn đánh quân Thanh. Một buổi tối,
Văn Lân đem mấy nghìn quân tinh nhuệ vượt sông Nguyệt Đức định sang bên kia
sông đánh quân Thanh.
Kết quả mấy
nghìn quân của Văn Lân đều bị quân Thanh tiêu diệt, Văn Lân chỉ còn một người một
ngựa chạy trốn về Thăng Long. Khi Văn Lân về Thăng Long, bọn Ngô Văn Sở, Ngô
Thì Nhậm một mặt cho người phi ngựa về Phú Xuân cáo cấp với Nguyễn Huệ, một mặt
ra lệnh cho toàn bộ quân đội rút lui về dãy Tam Điệp.
Ngày 20 tháng
Chạp năm Mậu Thân (1788), đại quân Tây Sơn do vua Quang Trung chỉ huy đến dãy
Tam Điệp. Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân phủ phục ở vệ đường xin chịu tội.
Vua Quang
Trung bảo bọn Sở và Lân: "Các ngươi theo ta làm đến chủ soái. Ta đem mười
một trấn ủy cho các ngươi, cho các ngươi tự tiện hành động. Thấy giặc đến các
ngươi chưa đánh trận nào đã chạy trốn. Tội các ngươi thật đáng chết.
Các ngươi chỉ
giỏi nghề võ, gặp giặc thì đánh khỏe. Còn tìm cơ chế thắng thì không phải ngón
sở trường. Cho nên trước khi về Nam ta đã để Ngô Thì Nhậm ở lại làm việc với
các ngươi.
Vả lại Bắc Hà
mới yên, lòng người chưa theo phục. Thành Thăng Long bốn mặt đều là chiến trường,
không có chỗ nào hiểm trở có thể giữ vững được.
Các ngươi
đóng quân ở đấy, ngoài thì giặc Thanh xâm lấn, trong thì người Bắc làm nội ứng,
các ngươi xoay xở làm sao cho được.
Các ngươi đem
toàn quân tạm tránh mũi nhọn của giặc để trong thì khích lệ lòng căm tức của
quân sĩ, ngoài thì làm tăng lòng kiêu của giặc.
Mới nghe ta
đã đoán là kế của Ngô Thì Ngậm, đến khi hỏi Văn Tuyết thì quả nhiên là
đúng".
Khi nói những
câu trên, vua Quang Trung tỏ ra đã thấy trước cuối năm Mậu Thân chưa phải là
lúc đánh quân Thanh, và Thăng Long cũng không phải là nơi có thể dựa vào để chống
đỡ các cuộc tấn công của quân Thanh.
Tại sao trước
cuối năm Mậu Thân chưa phải là lúc đánh quân Thanh?
Chúng ta đều
biết rằng âm mưu của quân Thanh là xâm lược nước Việt Nam, biến nước Việt Nam
thành quận huyện của nước Đại Thanh, nhưng quân Thanh lại xảo quyệt tuyên bố rằng
chúng kéo vào Việt Nam là để đánh bọn "phản nghịch Tây Sơn" trả lại
nước cho Lê Chiêu Thống.
Cựu thần nhà
Lê và nhiều nho sĩ đã mắc mưu quân Thanh và làm tay sai cho quân Thanh.
Những
"người Bắc làm nội ứng" mà Nguyễn Huệ nói với Ngô Văn Sở và Phan Văn
Lân chính là cựu thần nhà Lê và nho sĩ.
Hồi cuối năm
Mậu Thân (1788), khi quân Thanh sang xâm lược, một số cựu thần nhà Lê đã mộ
quân "dấy nghĩa" đánh lại quân đội Tây Sơn như trường hợp Hoàng Phùng
Nghĩa ở Nam Định.
Những kẻ như
Hoàng Phùng Nghĩa này sẵn sàng chỉ vạch cho quân Thanh chỗ đồn trú của quân Tây
Sơn, hay chỗ mai phục của quân Tây Sơn…
Muốn đánh
quân Thanh phải chờ cho đến ngày chúng tự phơi bộ mặt xâm lược của chúng trước
nhân dân nước Việt.
Ngày đó chính
là ngày quân Thanh đã vào Thăng Long, đã làm chủ Thăng Long, đã công nhiên đi
cướp bóc, hà hiếp nhân dân ta.
Đó cũng là
ngày Lê Chiêu Thống đã lộ mặt nạ bán nước "cõng rắn cắn gà nhà" bị
quân Thanh khinh bỉ và bị nhân dân căm giận.
Chỉ ngày đó
tiến quân ra Thăng Long đánh quân Thanh mới giữ được bí mật.
Đứng về mặt
chính trị mà nói, "giữ được bí mật" đó là được sự đồng tình và ủng hộ
của nhân dân.
Chỉ khi được
sự đồng tình ủng hộ của nhân dân mới giữ được các cuộc hành quân, và mới biết
rõ được tình hình quân địch.
Đến Phú Xuyên
sở dĩ quân Tây Sơn bắt được toàn bộ quân do thám của Tôn Sĩ Nghị chính là vì
quân Tây Sơn được nhân dân ủng hộ.
Chính nghĩa ở
về phía quân Tây Sơn làm cho quân Tây Sơn giữ được bí mật các cuộc hành quân,
biết được tình hình quân Thanh mà trái lại quân Thanh không biết tình hình quân
Tây Sơn.
Nếu đánh quân
Thanh ngay khi chúng mới chiếm đóng Thăng Long thì về chủ quan cũng như về
khách quan, quân Tây Sơn chưa đủ điều kiện chín muồi.
Về chủ quan,
quân Tây Sơn còn phải lấy thêm quân ở Nghệ An mới đủ lực lượng đương đầu thắng
lợi với quân Thanh.
Về khách
quan, nhân dân Việt Nam đã căm giận quân Thanh và vua tôi bọn Lê Chiêu Thống,
nhưng chưa căm giận đến cao độ, chưa nhận thấy là không đi với quân Tây Sơn thì
không những mất nước mà nhà cũng không còn.
Khi đã vào
Thăng Long, lúc này hành động cướp nước của quân Thanh đã làm cho nhiều cựu thần
nhà Lê mở mắt ra, thấy rõ chúng chỉ là bọn cướp nước, tham tàn.
Thời gian thuận
lợi nhất để đánh quân Thanh là thời gian từ ngày 30 tháng Chạp năm Mậu Thân (1788)
đến ngày 7 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1789).
Lúc này nhân
dân đã căm giận quân Thanh và bọn Lê Chiêu Thống đến cực độ. Đây cũng là lúc
quân Tây Sơn đã chuẩn bị đầy đủ, sẵn sàng chiến đấu, còn quân Thanh đang say
sưa ăn tết để ngoài khai hạ mới xuất quân đánh quân Tây Sơn.
Nếu để đến
sau ngày 7 tháng Giêng năm Kỷ Dậu mới đánh quân Thanh là bỏ mất thời cơ thuận lợi
nhất. Vì đến sau ngày 7 tháng Giêng không phải là lúc quân Tây Sơn tấn công
quân Thanh nữa, mà chính là quân Thanh đi tìm quân Tây Sơn để đánh.
Thế chủ động
của quân Tây Sơn nếu không bị mất đi, thì ít nhất cũng bị giằng co. Những đòn bất
ngờ sẽ khó thực hiện, thậm chí và không thực hiện được.
Trên đây là vấn
đề thời gian, thời cơ đánh quân Thanh. Bây giờ chúng ta xét về mặt không gian của
cuộc tấn công quân Thanh hồi cuối năm 1789.
Muốn tiêu diệt
thuận lợi quân Thanh không thể tấn công chúng ở Bắc Giang, Lạng Sơn, Tuyên
Quang, Phú Thọ hay Sơn Tây được.
Tại các miền
này hồi cuối năm Mậu Thân và đầu năm Kỷ Dậu đều có quân Thanh chiếm đóng, nhưng
số lượng quân Thanh ở các nơi ấy không tập trung.
Đã thế, quân
Thanh ở các nơi ấy có thể dựa vào địa thế hiểm trở của núi rừng để chống lại
quân Tây Sơn. Cuộc tấn công của quân Tây Sơn như vậy sẽ gặp nhiều khó khăn.
Quân Tây Sơn
sẽ phải chia sẻ lực lượng để đánh nhiều vị trí mà chưa chắc đã đoạt được phần
thắng về mình. Tình hình sẽ phức tạp. Chiến lược đánh nhanh thắng nhanh sẽ thất
bại. Thủy quân của nhà Thanh sẽ có thì giờ đổ bộ vào Thuận Quảng.
Muốn tiêu diệt
gọn quân Thanh, tốt nhất là đánh thẳng vào căn cứ chính của chúng ở Thăng Long.
Thăng Long là
nơi tập trung đại bộ phận quân Thanh, nhưng Thăng Long lại là nơi "bốn mặt
đều là chiến trường, không có chỗ nào hiểm trở" đúng như vua Quang Trung
đã nói với Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân ở dãy Tam Điệp.
Nếu Thăng
Long đã không phải là căn cứ tốt để quân Tây Sơn dựa vào đấy mà đánh quân
Thanh, thì nó càng không thể là căn cứ tốt để quân Thanh dựa vào đấy mà chống
quân Tây Sơn.
Về mặt không
gian, chỗ tốt nhất để tiêu diệt quân Thanh là Thăng Long, một căn cứ trống trải
không có núi non che chở.
Đánh Thăng
Long là đánh vào đầu quân địch khiến cho toàn bộ cơ thể của chúng bị rã rời, tê
liệt.
Việc chọn
Thăng Long làm mục tiêu chiến lược của cuộc tấn công hồi năm 1789 là hoàn toàn
phù hợp với chiến lược đánh nhanh thắng nhanh của Nguyễn Huệ.
Việc tấn công
vào căn cứ chính của quân Thanh ở Thăng Long cuối năm Mậu Thân và đầu năm Kỷ Dậu
tỏ ra Nguyễn Huệ là nhà quân sự thiên tài đã biết tranh thủ thời cơ thuận lợi tập
trung lực lượng đánh vào cơ quan đầu não của địch rồi từ đấy mà tiêu diệt tất cả
quân địch ở các nơi.
Không có một
thiên tài kiệt xuất như Nguyễn Huệ thì đầu năm Kỷ Dậu không thể có trận thắng
chớp nhoáng và kinh thiên động địa ở Thăng Long được.
5.
Năm
là, làm cho địch chủ quan, kiêu ngạo. Tuyệt đối giữ bí mật kế hoạch tấn công:
Vua Quang
Trung là một nhà quân sự thiên tài rất tin ở năng lực của mình. Ngày 24 tháng
Mười một năm Mậu Thân (1788), sau khi xem bức thư cáo cấp của Ngô Văn Sở do
Nguyễn Văn Tuyết phi ngựa trạm đem về Phú Xuân, nhà vua quát lớn: "Đàn chó
Ngô kia sao dám rông rỡ?".
Gặp Ngô Thì
Nhậm ở dãy Tam Điệp, nhà vua lại tuyên bố: "Nay ta đến đây tự đốc việc
quân, đánh hay giữ đã có kế cả rồi, chỉ trong mười ngày nữa, thế nào ta cũng
quét sạch giặc Thanh". Tuy đã nắm chắc phần thắng, vua Quang Trung vẫn tìm
cách làm kiêu lòng địch.
Sau khi từ
Nghệ An ra đi, nhà vua sai Trần Danh Bính cầm đầu tám viên sứ thần đưa đến cho
Tôn Sĩ Nghị ba đạo bẩm văn nói rõ về việc ông phải lên thay thế nhà Lê, và khẩn
khoản xin Tôn Sĩ Nghị hãy cho đóng quân ngoài cửa ải, tra hỏi nội tình nước Nam
cho rõ rồi hãy hành động.
Nguyễn Huệ lại
cho đem trả nhà Thanh bọn tuần dương binh là bọn Hác Thiên Tôn do tướng Tây Sơn
là Ngô Hồng Chấn bắt từ trước.
Nhận được bẩm
văn của vua Quang Trung, Tôn Sĩ Nghị vứt xuống đất, sai chém đầu Trần Danh Bính
và bắt các sứ thần Tây Sơn giam vào ngục. Tôn Sĩ Nghị lại càng tin rằng lực lượng
quân Tây Sơn không có gì đáng sợ.
Sau khi vào
Thăng Long, Sĩ Nghị ngạo nghễ tự coi y là chủ nước Việt Nam, y coi Lê Chiêu Thống
và bọn triều thần như cỏ rác.
Ngày đêm y mải
miết với gái đẹp rượu nồng. Khi có người báo cho y biết quân Tây Sơn đã kéo ra
dãy Tam Điệp, Tôn Sĩ Nghị vẫn tự đắc bảo Lê Chiêu Thống: "Không cần đánh vội,
ta cứ lấy thế nhàn rỗi mà đợi quân nhọc mệt".
Nhưng đến
sáng sớm ngày 5 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1789), khi nghe thấy tiếng súng nổ liên
hồi ở phía tây bắc thành Thăng Long và khi được tin quân Tây Sơn đã hạ đồn Điền
Châu ở làng Khương Thượng, Nghị sợ hết hồn vía, chỉ còn kịp nhảy lên ngựa không
yên cùng với mấy tên quân kỵ chạy ra bờ sông Hồng vượt cầu phao chạy sang Kinh
Bắc…
Tôn
Sĩ Nghị nửa đêm nghe báo tin không kịp thắng yên ngựa, không mặc áo giáp bỏ đồn
chạy. Quân Thanh thấy chủ tướng bỏ chạy, tranh nhau qua cầu Nhị Hà. Cầu đổ,
quân Tàu té xuống sông chết đuối, thây nổi như rạ (Ảnh minh họa: Internet).
Trong các hoạt
động quân sự, Nguyễn Huệ không có thói quen vạch ra trước một kế hoạch tấn công
tỉ mỉ.
Năm 1786, khi
ra Bắc lần thứ nhất "phù Lê diệt Trịnh", Nguyễn Huệ không hề cho mọi
người biết kế hoạch diệt Trịnh của ông.
Đến Nguyễn Hữu
Chỉnh cũng không biết ông sẽ diệt Trịnh ra sao. Mọi người chỉ biết kế hoạch tấn
công của quân Tây Sơn khi Nguyễn Huệ đã vào Thăng Long, đóng đại bản doanh ở phủ
chúa Trịnh.
Cuối năm Mậu
Thân (ngày 25/11/1788), khi cất quân từ Phú Xuân ra Bắc, Nguyễn Huệ chỉ cho mọi
người biết là ông ra Bắc chuyến này là để diệt quân Thanh xâm lược.
Đến Nghệ An gặp
Nguyễn Thiếp và nói chuyện với Nguyễn Thiếp, Nguyễn Huệ mới cho hay là chỉ
trong mười ngày là ông sẽ phá xong 29 vạn quân Thanh xâm lược.
Khi ra đến
dãy núi Tam Điệp, do tin tức tình báo đã nhận được đầy đủ, Nguyễn Huệ mới công
bố kế hoạch đánh quân Thanh cho mọi người biết.
Kế hoạch này
sở dĩ được thi hành tài tình và đầy đủ, chủ yếu vì nó đã được vạch ra trên cơ sở
tình hình thực tế của quân Thanh.
6.
Sáu
là, không coi thường địch:
Ở Phú Xuân,
khi được tin quân Thanh xâm lược Việt Nam, Nguyễn Huệ quát lớn: "Đàn chó
Ngô kia sao dám rông rỡ".
Ở dãy Tam Điệp,
ông cho mọi người biết chỉ trong mười ngày là ông phá sạch quân Thanh. Tuy vậy,
ông không hề coi thường quân Thanh. Ông đã thi hành tất cả các biện pháp nhằm
đi đến việc đánh bại quân Thanh.
Rạng sáng
ngày mồng 5 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1789), quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ thân tự
chỉ huy đánh đồn Ngọc Hồi, một đồn kiên cố nhất của quân Thanh.
Nguyễn Huệ
cho dồn quân lương vào một chỗ rồi truyền cho đốt sạch. Ông lại lấy khăn vàng
buộc vào cổ để cho mọi người biết rằng trong trận quyết liệt này, quân Tây Sơn
chỉ còn có hai con đường: một là thắng hai là chết.
Khi quân Tây
Sơn bắt đầu công đồn Ngọc Hồi, thì quân Thanh từ trong đồn bắn súng ra như mưa.
Các phương tiện
chống lại súng địch đã được chuẩn bị sẵn sàng: Quân Tây Sơn đã mang sẵn sáu
mươi tấm ván gỗ, Nguyễn Huệ cho lấy ba tấm ghép lại thành một lá chắn lớn,
ngoài phủ rơm đã tẩm nước. Như vậy là quân Tây Sơn có tất cả hai mươi tấm lá chắn
lớn.
Nguyễn Huệ
sai mười người khỏe lưng đeo đoản đao, khiêng một lá chắn, nấp sau lá chắn có
hai mươi khinh binh cầm vũ khí xếp hàng hình chữ nhất tiến theo sau.
Thế rồi quân
Tây Sơn vừa hô vừa tiến. Súng quân Thanh trong đồn cứ bắn ra, nhưng đều trúng
vào những tấm lá chắn có phủ rơm tẩm nước.
Khi đã giáp
lá cà, quân Tây Sơn bỏ lá chắn xuống, rút dao ra nhảy bổ vào chém quân Thanh.
Quân Thanh không kịp trở tay, bị quân Tây Sơn giết hại nhiều vô kể.
Để mở đường
cho quân đội tiến, Nguyễn Huệ lại cho hơn một trăm voi thật khỏe xông lên trước
đánh vào kỵ binh của quân Thanh.
Hạ xong đồn
Ngọc Hồi quân Tây Sơn rầm rộ kéo đến phá đồn Văn Điển và đồn Yên Quyết. Chỉ huy
quân Thanh là đề đốc Hứa Thế Hanh, tiên phong Trương Triều Long, tả dực Thượng
Duy Thăng đều tử trận…
7.
Bảy
là, giáo dục lòng yêu nước cho quân đội:
Muốn đánh thắng
quân địch, phải có chiến thuật, chiến lược đúng đắn, phải biết chỉ đạo việc thực
hiện chiến lược, chiến thuật. Nhưng chưa đủ. Muốn thắng quân địch, còn cần có một
đội quân có tinh thần chiến đấu cao.
Đội quân có
tinh thần chiến đấu cao là đội quân chiến đấu cho chính nghĩa, tức đội quân biết
chiến đấu vì ai, vì mục đích gì.
Nguyễn Huệ là
nhà quân sự biết đem tư tưởng yêu nước, tinh thần bất khuất giáo dục cho binh
sĩ, khiến cho binh sĩ hiểu rõ họ chiến đấu vì ai.
Quân đội Tây
Sơn đi theo Nguyễn Huệ đã từng được Nguyễn Huệ nhiều lần đưa đến những thắng lợi
vẻ vang.
Họ đã đánh đổ
chế độ phong kiến phản động ở Đàng Trong và Đàng Ngoài. Họ còn đánh đuổi 5 vạn
quân Xiêm xâm lược. Thực tế họ đã hiểu vì sao họ chiến đấu.
Đến khi phải
đương đầu với 29 vạn quân Thanh, Nguyễn Huệ lại giáo dục thêm cho quân đội lòng
yêu nước.
Khi duyệt
binh ở Nghệ An, Nguyễn Huệ một lần nữa lại đem tinh thần yêu nước quạt vào lòng
tướng sĩ: "Quân Thanh kéo sang xâm lược, hiện đương chiếm cứ Thăng Long,
các ngươi đã biết hay chưa?
Trong vòng trời
đất chia theo phận sao Dực, sao Chẩn, Nam Bắc vẫn riêng một non sông. Người Bắc
không phải nòi giống ta thì tất khác lòng khác dạ.
Từ nhà Hán về
sau, họ cướp đất đai ta, cá thịt nhân dân, vơ vét của cải, nông nỗi ấy thật là
khổ sở! Người trong nước ai cũng phải nghĩ đánh đuổi đi.
Đời Hán có
Trưng nữ vương, đời Tống có Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh
có Lê Thái Tổ.
Các ngài
không chịu bó tay ngồi nhìn quân ngoài tàn bạo, nên phải thuận lòng người, dấy
quân nghĩa, đánh thắng rồi đuổi chúng về.
Trong những
khi ấy, Nam Bắc đâu lại phận đó, bờ cõi yên ổn, vận nước lâu dài. Từ nhà Đinh đến
nay, chúng ta không đến nỗi phải cái khổ Bắc thuộc. Đó lợi hại, được thua, chuyện
cũ đã rành rành là thế.
Nay người
Thanh không soi gương Tống, Nguyên, Minh, lại sang mưu chiếm nước Nam ta,
đặt làm quận huyện. Vậy ta phải vùng lên mà đuổi đi!".
Trong trận tiến
đánh quân Thanh năm 1789, quân đội Tây Sơn đã được bồi dưỡng thêm về tinh thần
yêu nước, chí quật cường, bất khuất, họ hiểu họ đấu tranh không những để bảo vệ
những thành quả do khởi nghĩa nông dân (mà họ là đại biểu) đã đem lại mà còn để
bảo vệ đất nước bờ cõi nữa.
Họ đấu tranh
cho chính nghĩa, cho Tổ quốc, cho dân tộc, cho quyền lợi những người bị áp bức,
cho nên họ sẵn sàng hy sinh tính mạng.
Về mặt tư tưởng,
họ ở vào cái thế áp đảo quân Thanh, cho nên quân Thanh đã bị họ đánh cho đại bại.
Quân ta đánh đồn Ngọc Hồi, súng bắn ra như mưa. Vua Quang Trung cho quân khỏe mạnh khiêng ván đi trước, bộ binh theo sau (Ảnh minh họa: Internet).
8.
Tám
là, phân tán và tập trung lực lượng nhanh chóng:
Tài liệu lịch
sử không cho phép chúng ta biết Nguyễn Huệ đã phân tán lực lượng và tập trung lực
lượng cụ thể ra sao, nhưng chúng ta có ấn tượng rằng ông có phương pháp phân
tán và tập trung quân đội rất thần diệu.
Từ dãy Tam Điệp,
gần mười vạn quân được lệnh tiến ra Bắc. Chúng ta có thể nghĩ rằng cánh quân do
Nguyễn Huệ thân tự chỉ huy chí ít phải có đến năm vạn.
Năm vạn người
này nhất định phải chia làm nhiều toán, thì qua sông mới có thuyền bè, khi nghỉ
mới có nhà cửa và mới có thức ăn.
Tình thế bắt
buộc Nguyễn Huệ phải phân tán lực lượng trong khi hành quân. Nhưng khi đến Nam
Định gặp quân của Hoàng Phùng Nghĩa, quân Tây Sơn lập tức lại tập trung ngay để
tiêu diệt quân của Hoàng Phùng Nghĩa.
Gặp quân do
thám của Tôn Sĩ Nghị ở huyện Thanh Liêm, quân Tây Sơn truy kích quân Thanh đến
Phú Xuyên thì bắt được toàn bộ quân do thám của Tôn Sĩ Nghị.
Đến đồn Hà Hồi,
quân Tây Sơn cũng phải tập trung nhanh chóng thì mới giải quyết đồn này nhanh
chóng được.
Đến đồn Ngọc
Hồi, mức độ và nhịp điệu tập trung của quân Tây Sơn lại cao và nhanh hơn một bậc,
thì mới có đủ điều kiện để công đồn thắng lợi.
Tóm lại trên
một con đường dài 76 cây số từ bến Gián Khẩu đến Hà Nội, quân Tây Sơn ở vào một
tình trạng luôn luôn phân tán và luôn luôn tập trung để làm nhiệm vụ.
Vậy mà trên
đường tiến quân, quân Tây Sơn đi đến đâu đều thực hiện được đầy đủ nhiệm vụ chiến
thuật và chiến lược của mình. Chỉ một việc này cũng đủ nói lên tài năng tổ chức
kiệt xuất của Nguyễn Huệ.
9.
Chín
là, tập hợp được nhiều tướng lĩnh có tài, quan tâm đến đời sống của binh sĩ:
Trong quá
trình lãnh đạo khởi nghĩa Tây Sơn, Nguyễn Huệ đã tạo ra được nhiều tướng lĩnh
có tài như Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân, Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, Nguyễn Văn
Tuyết, Đặng Tiến Đông, đô đốc Mưu (hay Long), đô đốc Bảo, đô đốc Lộc…
Mức độ tài
năng những người này cũng khác nhau. Nhưng tất cả đều rất mực can đảm.
Mọi người đều
biết thái độ dũng cảm của bà Bùi Thị Xuân, khi bà bị Nguyễn Phúc Ánh thiêu chết
ở cửa Đông - Hà Nội.
Các tướng
lĩnh nói trên theo Nguyễn Huệ từ lâu và đều lập được công to.
Phan Văn Lân,
Ngô Văn Sở đã cùng với Nguyễn Huệ chỉ huy trận đánh đồn Ngọc Hồi. Đô đốc Long
đã đem quân Tây Sơn vào Thăng Long trước nhất.
Các tướng
lĩnh của Nguyễn Huệ đều được ông tin cẩn và đều là những người thực hành tốt
các chủ trương của ông.
Cái khéo của
Nguyễn Huệ là ông giao nhiệm vụ cho họ nhưng không hề hạn chế sáng kiến hay
tính chủ động của họ.
Sau khi diệt
Vũ Văn Nhậm, Nguyễn Huệ giao Bắc Hà cho bọn Ngô Văn Sở.
Ông nói:
"Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân là nanh vuốt của ta; Nguyễn Văn Dụng, Trần Thuận
Ngôn là tâm phúc của ta; Ngô Thì Nhậm tuy là người mới, nhưng là bậc tân thần,
ta coi như khách.
Nay ta giao
cho các khanh hết thảy mọi việc quân quốc, coi quản mười một trấn trong toàn hạt.
Hễ có điều chi, ta cho cứ được tiện nghi làm việc.
Song các
khanh cần phải họp bàn với nhau, chứ đừng phân bì kẻ mới người cũ, miễn sao làm
cho được việc, ta mới yên lòng".
Nguyễn Huệ tỏ
ra rất tin cẩn các tướng lĩnh của ông. Thái độ của ông làm cho các tướng lĩnh
phấn khởi và có điều kiện để phát huy đầy đủ sáng kiến, tài năng của họ.
Nguyễn Huệ
còn là nhà quân sự có thói quen đồng cam cộng khổ với binh sĩ của ông.
Tài liệu lịch
sử cho chúng ta biết quân Tây Sơn thường lấy của nhà giàu chia cho dân nghèo.
Năm 1786, sau
khi đánh đổ họ Trịnh, kéo quân vào chiếm Thăng Long, Nguyễn Huệ cho đem tất cả
gấm vóc, vàng bạc, châu báu ở trong kho phủ chúa Trịnh chia cho các tướng sĩ.
Tướng sĩ Tây
Sơn thường có nhiều vàng bạc mang ở trong mình. Những vàng bạc này là những
vàng bạc tịch thu của bọn phong kiến Nguyễn - Trịnh mà Nguyễn Huệ đem phân phát
cho mọi người trong quân đội.
Việc Nguyễn
Huệ cho quân đội ăn Tết Nguyên đán vào ngày 20 tháng Chạp năm Mậu Thân tỏ ra
ông hiểu rõ tâm lý của binh sĩ chú ý đến đời sống của binh sĩ.
Người dân Việt
Nam rất tha thiết với Tết Nguyên đán. Nhiều người làm ăn quanh năm dành dụm để
rồi đến cuối năm ăn tết.
Do yêu cầu của
sự nghiệp đánh giặc cứu nước, cuối năm Mậu Thân, Nguyễn Huệ phải đem quân ra Bắc
đánh Tôn Sĩ Nghị.
Chiến dịch diễn
ra vào đúng dịp tết. Hiểu rõ thắc mắc của mọi người, Nguyễn Huệ hạ lệnh cho mọi
người ăn tết trước ở dãy Tam Điệp rồi mới xuất quân.
Ông tuyên bố:
"Nay hãy tạm ăn Tết Nguyên đán trước. Đợi đến sang xuân ngày mồng 7 vào
Thăng Long lại mở tiệc ăn mừng. Các ngươi cứ ghi lấy lời của ta xem có đúng
không?".
Thế nghĩa là
quân Tây Sơn được ăn hai cái tết: Cái tết ngày 20 tháng Chạp ở dãy Tam Điệp và
cái tết vào ngày mồng 7 tháng Giêng ở Thăng Long.
Ngày mồng 7
tháng Giêng, khi quét sạch quân Thanh và làm chủ Thăng Long, Nguyễn Huệ cho mổ
rất nhiều bò lợn để khao thưởng ba quân.
Quân Tây Sơn
lại ăn một cái tết nữa đúng như Nguyễn Huệ đã hẹn ở dãy Tam Điệp.
10.
Mười
là, chú ý đến tình báo, tập trung binh chủng quan trọng:
Tôn Vũ có
nói: Biết mình biết người, trăm trận đánh trăm trận được. Biết người nói đây là
nắm được đầy đủ những tin tức tình báo về quân địch.
Trong các hoạt
động quân sự của ông, Nguyễn Huệ rất chú ý đến công tác tình báo.
Tháng Năm năm
Bính Ngọ (1786), Nguyễn Huệ khi đem quân ra đánh Thuận Hoá mà trấn thủ là Phạm
Ngô Cầu.
Nhờ có tình
báo, Nguyễn Huệ biết Phạm Văn Cầu là kẻ mê tín và đa nghi, Nguyễn Huệ đã dùng
mưu khiến cho Phạm Ngô Cầu chúi đầu vào việc lập đàn chay, rồi Nguyễn Huệ lại
dùng mưu ly gián làm cho Ngô Cầu nghi ngờ Hoàng Đình Thể, và cuối cùng không tiếp
ứng cho Hoàng Đình Thể, để mặc cho quân Tây Sơn đánh giết cha con Đình Thể.
Năm 1788, khi
mang quân ra đánh quân Thanh ở Thăng Long, Nguyễn Huệ dám cho đô đốc Bảo, đô đốc
Long mang voi chiến, ngựa chiến đi đường tắt lẻn vào lòng địch để đánh địch, là
vì ông đã nắm được đầy đủ tin tức về quân địch ở chung quanh Thăng Long.
Trong lịch sử
chế độ phong kiến Việt Nam, tượng binh (voi chiến) cũng giữ vai trò quan trọng
trong các trận đánh.
Hồi đầu thế kỷ
XV, Hồ Quý Ly cũng có một đội tượng binh quan trọng. Khi quân Minh đánh thành
Đa Bang, Quý Ly cho tượng binh ra đánh quân Minh. Trương Phụ dùng lốt sư tử
khoác vào mình ngựa, rồi thúc ngựa ra giao chiến.
Voi tưởng là
sư tử thật, sợ quay lại chạy, quân Minh thừa thắng đuổi theo, quân Hồ đại bại.
Tượng binh của
quân đội Nguyễn Huệ khác hẳn tượng binh của Hồ Quý Ly. Trên các voi chiến của
Nguyễn Huệ đều có quân sĩ cầm hoả hổ. Khi gặp quân địch, quân sĩ vừa thúc voi
tiến, vừa dùng hỏa hổ bắn vào quân địch.
Voi chiến của
Nguyễn Huệ như vậy khác nào một thứ chiến xa tiến đến đâu quân địch tan vỡ đến
đấy.
Sáng sớm ngày
mồng 5 tháng Giêng năm Kỷ Dậu, gặp tượng binh của Nguyễn Huệ, kỵ binh của quân
Thanh hoảng sợ vội quay lại chạy.
Chúng ta
không rõ quân đội của Nguyễn Huệ được tổ chức cụ thể như thế nào. Chúng ta chỉ
biết ở dãy núi Tam Điệp, khi đô đốc Lộc xuất quân tiến về miền Phượng Nhỡn (Bắc
Giang) và đô đốc Tuyết xuất quân tiến về miền Hải Dương, thì hai cánh quân này
không có tượng binh.
Do đó chúng
ta nghĩ rằng Nguyễn Huệ đã tập trung tất cả tượng binh cho lộ quân thứ nhất tức
lộ quân có nhiệm vụ đánh vào Thăng Long.
Trong lộ quân
thứ nhất, có ba cánh quân là cánh quân của đô đốc Bảo, cánh quân của đô đốc
Long và cánh quân chủ lực do Nguyễn Huệ thân tự chỉ huy.
Cả ba cánh
quân đều có tượng binh, nhưng hình như cánh quân chủ lực có nhiều tượng binh nhất.
Vì trong trận
đánh đồn Ngọc Hồi, chúng ta thấy tượng binh xuất hiện từ đầu đến cuối và tượng
binh đã góp phần quan trọng vào trận hạ đồn Ngọc Hồi, một trận có tính chất quyết
định toàn bộ chiến dịch cả phá 29 vạn quân Thanh hồi đầu năm 1789.
Thiên tài
quân sự của Nguyễn Huệ thể hiện trên nhiều mặt, tựu trung lại là về tổ chức,
xây dựng quân đội và chỉ huy tác chiến.
Trên đây chỉ
là những nét cơ bản, bởi vì thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ vô cùng rực rỡ và
phong phú, đòi hỏi phải tiếp tục có nhiều công trình nghiên cứu công phu và kỹ
lưỡng hơn.
ĐẶNG VIỆT THỦY
Nhận xét
Đăng nhận xét