“TIẾNG THU” CỦA LƯU TRỌNG LƯ VỚI “THU THANH PHÚ” CỦA ÂU DƯƠNG TU
“TIẾNG
THU” CỦA LƯU TRỌNG LƯ
VỚI
“THU THANH PHÚ” CỦA ÂU DƯƠNG TU
Để minh
họa việc đọc một bài thơ xuất phát từ văn bản chúng tôi chọn bài Tiếng thu của
Lưu Trọng Lư, bởi vì hiện có những cách hiểu khác nhau, và ngôn ngữ là thử
thách hàng đầu để khám phá thêm ý nghĩa mới.
Nhan đề
Tiếng thu không phải là mới của Lưu Trọng Lư. Đặt trong ngữ cảnh văn học Trung
Quốc mà các nhà thơ Việt Nam lúc ấy không xa lạ, thì ta thấy từ đời Tống, Âu
Dương Tu đã có bài Thu thanh phú - bài phú tiếng thu. Dù chúng ta chưa biết họ
Lưu có chịu ảnh hưởng trực tiếp từ tác phẩm của họ Âu Dương hay không, thì cái
tiếng thu kia vẫn là một ngữ cảnh nghệ thuật. Ta sẽ từ cái chung mà tìm ra cái
khu biệt.
Một buổi
tối Âu Dương Tu đang ngồi đọc sách trong thư phòng thì bỗng nhiên nghe thấy có
âm thanh lạ, thoạt đầu nghe lác đác, rồi sau nghe rào rào, như sóng vỗ, như gió
mưa cùng ập đến, tiếng va đập vào mọi vật nghe loảng xoảng như tiếng sắt, tiếng
vàng, tiếng binh khí chạm nhau, như có nhiều người ngựa cùng nhịp bước tới. Bảo
tiểu đồng ra ngoài xem thì thấy trời quang mây tạnh, trăng sao vằng vặc giữa trời,
bốn bề vắng lặng. Thì ra tiếng thu vô hình chỉ dội đến trong lòng.
Hai tác
giả đời Thanh tuyển chọn bài phú này nhận xét : tiếng thu vô hình mà viết như
là có thực, thật hay, đến cuối bài phú lại thể hiện cái ý phiền muộn của con
người, đời người từ bé đến già đã chịu bao nhiêu thay đổi, giống như mọi vật đã
trải qua từ xuân đến thu. Đó là tiếng thu, một tiếng thu buồn của đời người, mà
nghe như là tiếng các vật thể dội vang vào trong lòng. Trong thơ ca Trung Quốc,
theo học giả Nhật Tiểu Vĩ Giao Nhất, kể từ Kinh Thi cho đến đời Hán, mùa thu đã
xuất hiện nhưng chưa buồn. Từ đời Ngụy Tấn trở đi thu buồn trở thành cảm thức cố
định với các hình ảnh : cỏ cây điêu linh, đời người ngắn ngủi, quả phụ nhớ chồng.
Người ta liên hệ mùa thu thuộc kim, kim khắc mộc, mùa thu là hình quan, là đao
búa đối với cỏ cây. Mùa thu còn là mùa âm khí thịnh, mối sầu bi như giăng mắc
khắp nơi. Với truyền thống đó thì phú tiếng thu của Âu Dương Tu mới ra đời.
Nét khu
biệt thứ nhất của bài thơ Tiếng thu của Lưu Trọng Lư là mang hình thức câu hỏi.
Cả bài thơ chín dòng (không phải tám dòng như thể ngũ luật !) tạo thành ba câu
hỏi. Đây là biện pháp thường gặp của Lưu Trọng Lư. Trong tập Tiếng thu có 52
bài thơ mà đã có 21 bài sử dụng câu hỏi. Nhưng ở bài Tiếng thu này thì cả bài đều
là câu hỏi với dấu hỏi ở cuối mỗi câu. Hình thức câu hỏi này cho thấy bài thơ
không phải là mô tả cảnh mùa thu, mà là hỏi về sự cảm nhận tiếng thu. Bài thơ
thực chất cũng không phải là bức tranh thiên nhiên, mặc dù có những màu sắc, đường
nét. Trước đây cũng đã có người nhầm bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là thơ tả cảnh !
Hình thức ba câu hỏi đã chứng tỏ bài thơ không thuộc hình thức thơ ngũ ngôn
truyền thống, mà là thơ điệu nói hiện đại với những câu thơ câu nào cũng vắt
dòng, dòng này tràn sang dòng kia, mặc dù mỗi dòng vẫn là năm chữ. Theo bản in
năm 1939 thì bài thơ chỉ viết hoa có ba chữ "Em" đầu câu hỏi, không
viết hoa các chữ đầu dòng còn lại. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng, nó đòi hỏi
người ta phải cảm nhận nó khác với cách cảm nhận thơ Đường lấy ý họa làm chính.
Điều thú vị mà chúng tôi đã nhận xét là thơ mới đã đến lâu rồi, mà người ta vẫn
thưởng thức nó theo con mắt, tập quán thưởng thức thơ Đường ! Năng lực, thói
quen thưởng thức thơ của người đọc, dù người đọc là nhà thơ, cũng thường lạc hậu
so với thực tế sáng tạo thơ ca.
Dấu hỏi
đặt cuối mỗi câu rất quan trọng. Nếu bỏ nó đi thì câu thơ "Em không nghe
mùa thu, Dưới trăng mờ thổn thức" sẽ trở thành một câu khẳng định cộc lốc,
võ đoán và chẳng có thi vị gì. Cả ba câu đều như thế. Hơn nữa, nếu không có dấu
hỏi thì từ "Em" còn có thể được hiểu ở ngôi thứ nhất, lúc đó câu thơ
có nghĩa là : "Tôi không nghe mùa thu, Dưới trăng mờ thổn thức". Cả
ba câu đều như thế. Và bài thơ lúc đó sẽ là sự thổ lộ nỗi lòng của một người điếc
không nghe được tiếng thu !
Nói như
vậy để thấy rằng ý nghĩa của câu hỏi là hết sức quan trọng. Nó là cơ sở ngữ
nghĩa của bài thơ, là dấu hiệu dễ thấy về lời thơ như một hành vi, một thái độ,
một băn khoăn. Ba câu hỏi xếp theo bút pháp tu từ sóng đôi mà người Trung Quốc
thường gọi là "bài tỷ", có tác dụng tạo giai điệu. Không có câu hỏi,
chỉ thuần túy sóng đôi cũng đã tạo thành được giai điệu. Một khi câu hỏi được tạo
thành sóng đôi thì nó là giai điệu hỏi, xoáy xâu vào tâm hồn người. Nếu bài thơ
này có hồn vía thì hồn vía trước hết thể hiện ở ba câu hỏi này.
Nét khu
biệt thứ hai là câu hỏi theo lối phủ định :
Em
không nghe mùa thu
Dưới
trăng mờ thổn thức ?
Em
không nghe rạo rực
Hình ảnh
kẻ chinh phu
Trong
lòng người cô phụ ?
Em
không nghe rừng thu
Lá thu
kêu xào xạc
Con nai
vàng ngơ ngác
Đạp
trên lá vàng khô ?(*)
Chúng
tôi có nhận xét, vì sao bài thơ dùng câu hỏi phủ định ? Nếu dùng câu hỏi kiểu :
"Em có nghe mùa thu... Em có nghe rạo rực... Em có nghe rừng thu..."
thì ý chung của câu hỏi không có gì thay đổi. Nhưng nhà thơ lại dùng chữ
"không". Có thể vì vần bằng ở đây nghe êm ái, ngọt ngào nhưng không
chỉ có thế. Việc lựa chọn hình thức kiểu câu hỏi nào phụ thuộc vào cảm giác nội
tại, thiết thân của người hỏi đối với người được hỏi. Cái cảm giác nội tại ấy sẽ
là tiền giả định để người ta nêu ra phát ngôn. Chọn từ "không" nhà
thơ thể hiện cái mặc cảm vô thức về nỗi cô đơn không người chia sẻ. Nhạc thu, cảnh
thu tuy có thể hay và đẹp, nhưng thế gian ai người đồng cảm đây ? Vấn đề xốn
xang của bài thơ là ai đồng cảm, chứ không phải cảnh có hay, màu có đẹp hay
không. Cái trớ trêu của cuộc đời là ở đây : tiếng thu thật tha thiết, vậy mà dường
như em không nghe. Có những dự cảm nào đó về sự thờ ơ của em và bài thơ hỏi ba
lần : "Em không nghe... mùa thu... ? ... ?". Câu hỏi nêu ra nhẹ nhàng
êm ái để khêu gợi lòng đồng cảm, nhưng trong khi nêu đã mang sẵn mặc cảm cô
đơn, vừa khao khát đồng cảm, vừa không tin vào khả năng đồng cảm. Anh đã nghe tất
cả, đó là một tiền giả định của câu hỏi. Vậy em không nghe thấy sao, một tiền
giả định khác. Trong câu hỏi ở thể phủ định của các câu thơ đã hàm chứa một mâu
thuẫn nội tại, tiềm ẩn mơ hồ giữa hai tâm hồn. Đó là cái buồn sâu xa, mới mẻ của
bài Tiếng thu, mà cũng là của Thơ mới nói chung. Cùng trong một tiếng thu mà
người thì nghe thấy, người thì không nghe.
Sự đối
lập giữa người nghe và người không nghe thấy tiếng thu đã có trong bài phú Tiếng
thu của Âu Dương Tu. Trong bài phú, Âu Dương Tu đã nghe thấy hết, còn tiểu đồng
thì không nghe thấy gì. Tác giả tuyển và bình chú bài này là Ngô Sở Tài và Ngô
Điều Hậu nhận xét : "[tiểu đồng] chỉ thấy mà không nghe, diệu !".
"Diệu" là vì qua tương phản này đã lột tả được tiếng thu vô hình, hư ảo,
không phải ai cũng nghe thấy, nó đề cao sự tinh tế của Âu Dương Tu. Tiểu đồng
không nghe thấy là chuyện thường cũng không ai bắt nó phải nghe thấy, một mình
Âu Dương Tu nghe thấy và thể hiện là đủ rồi, không cần phải có ai nghe thêm nữa
bởi ông là người phát hiện tiếng thu. Trong bài thơ của mình Lưu Trọng Lư làm một
phát hiện khác : có những tấm lòng có thể không nghe thấy tiếng thu. Tiếng thu
mà ông miêu tả càng thiết tha, càng da diết, thì sự không nghe thấy càng đáng
tiếc, đáng buồn. Cái niềm tin rằng mình nghe thấy thì ai cũng nghe thấy của thời
xưa không còn nữa. Do đó, câu hỏi phủ định trong bài thơ mang đậm ý vị của một
lời than hơn là một lời chất vấn, than thân mình cô độc ngay trong cảm nhận về
cuộc đời. Lời than này họa điệu với những thổn thức, rạo rực, tiếng kêu...
Nét khu
biệt thứ ba : Nếu tiếng thu của Âu Dương Tu là tiếng của vật thể, kim khí, gió
mưa, tiếng chân người, ngựa, thì tiếng thu của Lưu Trọng Lư là tiếng lòng thầm
kín, âm thầm : Mùa thu dưới trăng mờ thổn thức. Mùa thu như một con người đang xao
xuyến khôn nguôi, như đang khóc thầm, mà mặt trăng như cũng mờ đi vì sương sa
hay vì nước mắt. Đó là tiếng buồn của mùa thu nói chung, nhưng không còn là tiếng
của mùa thu thuộc kim và âm khí thịnh, mà là tiếng lòng con người phóng chiếu
vào mùa thu. Hình ảnh cô phụ nhớ chồng là một môtíp thơ lâu đời có từ thời Hán,
Ngụy bên Trung Quốc. Những câu như : "Lòng thiếp cảm ngao ngán, Mặt trời vội
về Tây, Nhớ chàng suốt năm canh", "Nhớ chàng buồn đứt ruột, Trăng
sáng chiếu vào giường, Sông Ngân xoay về Tây", "Chàng đi xa khổ mãi,
Tại làm sao không về", có thể bắt gặp rất nhiều. Nhưng Lưu Trọng Lư không
kể lể nỗi lòng, mà nói tới cảm giác rạo rực của hình ảnh kẻ chinh phu trong
lòng người cô phụ. Có người đem tách "Hình ảnh kẻ chinh phu, Trong lòng
người cô phụ" ra khỏi câu hỏi tự nhiên, liền mạch : "Em không nghe rạo
rực hình ảnh kẻ chinh phu trong lòng người cô phụ", để rồi cho rằng đó là
hình ảnh văn xuôi, chẳng có chất thơ tý nào ! Tách ra như thế thì câu nào cũng
vô nghĩa. Đây là bài thơ mà câu thơ vắt dòng, hình ảnh kẻ chinh phu là chủ ngữ
của câu phụ, còn rạo rực là vị ngữ ! Cái mới của Lưu Trọng Lư là lắng nghe tiếng
rạo rực trong lòng người. Hình ảnh "lá thu kêu xào xạc" cũng là một ẩn
dụ. Xào xạc là tiếng kêu than của lá, họa điệu cùng tiếng thổn thức, rạo rực ở
trên. Hình ảnh "Con nai vàng ngơ ngác, Đạp trên lá vàng khô" là một
hình ảnh đẹp lộng lẫy. Nhưng đồng màu mà không đồng cảm, bởi con nai vàng đạp
trên lá vàng khô, khi lá thu "kêu" xào xạc - "Đạp" là một động
tác rất mạnh, dùng sức, như nói : đạp cửa xông vào, đạp bằng chông gai, đạp xe,
đạp đổ, v.v... Ở đây con nai không phải "bước", "đứng",
"chạy" mà là "đạp", một động tác có tính chất phũ phàng, dù
là ngơ ngác, vô tình. "Ngơ ngác" là trạng thái lạc lõng, không biết
gì xung quanh. "Con nai vàng ngơ ngác" trở thành biểu tượng cho cái đẹp
vô tình, ngây thơ, lạc lõng. Nếu bảo bức tranh đẹp vì con nai vàng trong rừng
thu vàng, thì hóa ra mấy chữ "đạp", "ngơ ngác", "kêu
xào xạc" không có ích gì để hiểu hình tượng con nai vàng hay sao ?
Giai điệu
chính của bài Tiếng thu là điệp khúc "Em không nghe". Cả bài thơ chỉ
có mỗi một điệp khúc ấy. Ứng với nó là tiếng thu nghe từ những cảnh khác nhau.
Ba cảnh khác nhau, xa nhau nhưng đều liên kết thống nhất trong tiếng thu : tiếng
thổn thức, tiếng rạo rực, tiếng lá kêu. Đó là tiếng buồn của thời gian vô tình,
tiếng khát khao hạnh phúc, tiếng kêu gọi đồng cảm. Đó là tiếng thu của thế giới
khách quan hay là tiếng vang lên từ cõi lòng cô đơn của con người ? Thật khó mà
xác định ! Tiếng thu là tiếng của đất trời vào thu, lẽ nào anh và em có thể ở
ngoài tiếng ấy ? Tiếng của anh cũng là tiếng thu. Em không nghe tiếng lòng anh
hay không nghe cả chính tiếng lòng em nữa !
Cảnh
trong bài thơ là hư cảnh, tâm cảnh hiện ra trong lòng. Ai thấy được cảnh mùa
thu thổn thức ? Ai thấy được cảnh hình ảnh kẻ chinh phu trong lòng người cô phụ
? Thật ngây thơ nếu ta hiểu con nai vàng ở đây là con nai thật giữa rừng thu !
Nếu trong thiên nhiên đã có con nai thường ngơ ngác rồi, thì thêm một con nai
như thế trong thơ làm gì ? Đây chỉ là con nai biểu trưng. Là cái đẹp thiếu lòng
đồng cảm, phải chăng con nai là hiện thân của "em" ? Cho nên hình ảnh
đẹp nhưng mà lạnh.
Nét khu
biệt thứ tư là nhạc điệu. Có người gọi đây là nhạc thơ của thơ mới. Chúng tôi
chỉ xin lưu ý vai trò của vần trắc : chín dòng thơ mà có năm tiếng trắc ở cuối
dòng, ba cặp vần liền là trắc, bốn cặp từ láy là trắc. Bài thơ có những câu thật
êm ái, du dương, nhưng các vần trắc chiếm ưu thế ở vị trí mạnh với các vần : ức,
ực, ụ, ạc, ác làm cho tiếng thu không ngân vang lên được, mà thu lại, tắc nghẹn
lại trong lòng. Các vần bằng u, ô cũng không phải vần vang, nó là tiếng âm thầm.
Nét khu
biệt cuối cùng là kết cấu phi đối xứng. Chỉ có câu hỏi mà không thấy câu trả lời,
chỉ có một bên nghe mà phía em thì mù mịt. Nó thể hiện khát vọng hài hòa, tha
thiết của bài thơ.
Tóm lại,
ý nghĩa của ngôn ngữ thơ thể hiện trên cơ sở khu biệt, hệ thống khu biệt tạo
thành ngôn ngữ của tác phẩm thơ. Ý nghĩa của bài thơ bộc lộ trong ngữ cảnh của
tác phẩm, trong ngữ cảnh văn học và văn hóa. Bất cứ ai phân tích thơ, cảm thụ
thơ, dù tự giác hay không cũng đều bắt đầu từ các nét khu biệt, khám phá cái
nét khu biệt càng toàn vẹn, càng đầy đủ, càng có cơ nắm bắt sâu sắc, tinh tế
các sắc thái phong phú, mới lạ, bất ngờ của tác phẩm thơ. Xuất phát từ ấn tượng
thơ để phân tích thơ là con đường tự nhiên, lành mạnh để tiếp cận thơ... Song
xuất phát từ văn bản nghệ thuật với hệ thống các khu biệt mới là con đường
khách quan, lâu dài, hứa hẹn những cách hiểu mới.
TRẦN
ĐÌNH SỬ
Nhận xét
Đăng nhận xét