NƯỚC

 NƯỚC
Bàn về từ nước trong tiếng Việt, tác giả dẫn tên người, tên đất như: Hà Nội, Hải Dương, Bến Thành, Vũng Liêm, Vàm Cỏ, Cửa Tùng, Láng Thượng, Bàu Cò...
Có cách dùng trực tiếp (có chữ nước): con nước, nước cờ, mách nước, nói nước đôi, chạy nước rút, ngựa phi nước đại, đường đi nước bước, lạ nước lạ cái, tức nước vỡ bờ, làm đến nước ấy là cùng...
Và cách dùng dựa vào sự chuyển nghĩa với những ẩn dụ có liên quan đến chuyển động của nước, của hoạt động trên sông nước: trăng lặn, dòng thời gian, cầu truyền hình, làn sóng đấu tranh, cuộc đời sóng gió, của chìm của nổi, cạn tình cạn nghĩa, lặn lội bên trời Tây, câu pháo vào trận địa, ngập đầu trong đống giấy tờ, vụ bê bối này chìm xuồng mất rồi...
Đặc biệt, theo GS Nguyễn Đức Dân, chỉ có nước ta mới dùng nước để gọi quê hương, cộng đồng, quốc gia: làng nước, nước nhà, nước non, giang sơn, non sông, đất nước...

Nhận xét

Bài đăng phổ biến