TỪ “PHÙ HỢP” LIÊN QUAN
GÌ ĐẾN… HỔ?
Phù hợp 符合 là một từ Việt
gốc Hán, có nghĩa là hợp với nhau, ăn khớp với nhau. Ví dụ: Cách ăn mặc rất phù
hợp; Lời khai không phù hợp với chứng cứ. Người Việt hầu như ai cũng hiểu đúng
và dùng đúng. Tuy nhiên, vì sao lại gọi là phù hợp?
Điều thú vị là phù hợp vốn
bắt nguồn từ một tín vật liên quan đến hổ, đó là hổ phù 虎符.
Chữ phù 符 chỉ chung các
tín vật được đưa ra làm bằng chứng. Nguyên thời xưa, khi các bậc đế vương trao
binh quyền cho quan lại, tướng lĩnh ngoài mặt trận hoặc nơi biên ải, thì phải
có tín vật 信物
(vật làm tin) đúc hình con hổ, gọi là hổ phù 虎符 (phù tiết, tín vật hình con hổ). Ban
đầu, hổ phù được làm bằng ngọc, sau đổi làm bằng đồng.
Hầu như tất cả các cuốn
từ điển tiếng Việt chúng tôi có trong tay đều giảng hổ phù là “phù hiệu, ấn tín
của các quan võ thời xưa, có khắc hình đầu con hổ phân làm hai nửa, một nửa lưu
tại triều đình, một nửa giao cho tướng cầm quân” (Từ điển Hoàng Phê-Vietlex),
“Phù-hiệu hình đầu cọp của quan tướng xưa” (Từ điển Lê Văn Đức)... Tuy nhiên, hổ
phù với chức năng tín vật vốn được chế tác ở dạng tượng tròn, trên lưng hổ có
khắc chữ. Hổ phù làm xong được xẻ làm hai nửa, dọc từ phần đầu, chạy theo sống
lưng cho tới tận mút đuôi. Bên hữu 右 (phải) của hổ phù được lưu lại triều
đình, bên tả 左
(trái) hổ phù trao cho quan lại địa phương hoặc tướng cầm quân. Khi cần điều
binh khiển tướng, thì tướng lĩnh phải đợi tín vật là nửa hình hổ phù của triều
đình đem tới để so sánh, khớp lại với nhau, nếu PHÙ HỢP, thì mới được điều
binh.
Hổ tượng trưng cho quyền
uy, dũng mãnh. Thế nên binh sĩ dũng mãnh được gọ là hổ sĩ 虎士, bề tôi uy vũ gọi
là hổ thần 虎臣,
tướng lĩnh uy dũng gọi là hổ tướng 虎將...Và hổ phù cũng không ngoài hàm ý chỉ
sức mạnh của kẻ nắm binh quyền cao nhất và kẻ được trao binh quyền cấp dưới.
Hổ phù hay binh phù rất
thịnh hành ở các thời Chiến Quốc, Tần, Hán. Đến Tuỳ-Đường thì hổ phù bắt đầu được
đổi thành ngư phù 魚符
(phù tiết, tín vật hình con cá), bởi ngư
魚
tượng trưng cho sự trao đổi thư tín. Ngư phù (còn gọi là ngư khế 魚契) được làm bằng
gỗ hoặc bằng đồng, cũng được cắt dọc làm hai nửa để làm tín vật đôi bên. Về
sau, ngư phù trở thành tín vật tuỳ thân của cấp quan trưởng, lại chia ra các loại
như kim (vàng), ngân (bạc), đồng (đồng) để phân biệt thân vương với bậc ngũ phẩm,
quan viên…
Cũng cần nói thêm là
ngày xưa phù, hay phù tiết có khi đơn giản chỉ là cái thẻ tre có viết chữ, rồi
bẻ làm hai nửa làm dấu hiệu, tín vật trong lĩnh vực dân sự. Khi khớp lại mà PHÙ
HỢP thì đôi bên lấy làm tin.
Chúng tôi chưa có điều
kiện khảo sát xem hổ phù có được dùng làm tín vật để điều binh khiển tướng
trong quân đội Việt Nam dưới thời phong kiến hay không. Tuy nhiên, trong tiếng
Việt, hổ phù hầu như không được dùng để chỉ tín vật, mà gọi các đồ án trang trí
hình đầu quỷ La Hầu, đầu hổ, hay đầu rồng ngậm ngọc..., thêu trên trang phục,
điêu khắc, chạm nổi trên đồ tế khí hay đầu hồi của đình chùa miếu mạo nói
chung. Với chức năng này thì hổ phù mới đúng là chỉ có phần đầu hổ, mà các cuốn
từ điển tiếng Việt đã mô tả.
Như vậy, phù hợp 符合 vốn chỉ hai nửa
của cái phù 符
(phù tiết, tín vật) hình hổ, một của triều đình, một của tướng lĩnh ngoài mặt
trận, hợp 合
lại với nhau một cách trùng khớp, thể hiện không có giả mạo trong điều binh khiển
tướng. Về sau, tất cả những gì hợp với nhau, ăn khớp với nhau đều gọi là phù hợp.
Như vậy phù hợp tưởng
như không liên quan gì đến hổ, nhưng xét theo nghĩa từ nguyên, thì chúng có mối
quan hệ tương tác, chỉ sự ăn khớp khi ghép nối hai nửa của một tín vật có tên
là hổ phù.
HOÀNG TUẤN CÔNG
Nhận xét
Đăng nhận xét