TRONG THÀNH
NGỮ TỤC NGỮ
“Gậm một mối căm hờn
trong cũi sắt/ Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua/ Khinh lũ người kia ngạo mạn
ngẩn ngơ/ Giương mắt bé diễu oai linh rừng thẳm…”
Bài Nhớ rừng của Thế Lữ
có thể xem là một trong những thi phẩm xuất sắc nhất về hổ. Và có lẽ cũng phải
đến hàng ngàn lời bình về tuyệt tác này, đặc biệt là vào mỗi năm Dần. Trong bài
viết này, chúng ta không nhắc lại bài Nhớ rừng, mà cùng cà kê chuyện cọp, luận
bàn về hổ trong thành ngữ tục ngữ.
Trong lời ăn tiếng nói dân gian, hổ vừa hiện
lên với dáng vẻ của vị chúa tể oai hùng, tượng trưng cho quyền uy sức mạnh, lại
vừa là kẻ hung bạo, độc ác.
Hổ thị đam đam
Hổ tuy to lớn nhưng lại
thuộc họ nhà mèo. Dân gian cho rằng, chính mèo đã dạy võ cho hổ. Bởi thế, nó
không đi săn theo kiểu phối hợp bầy đàn, rượt đuổi, vây bắt con mồi như sư tử.
“Con mèo lớn khủng khiếp” này ưa độc lập tác chiến. Nó xuất quỷ nhập thần hệt
những gì…sư phụ đã dạy. Và sức mạnh của hổ trở nên vô song nhờ biết kết hợp
nanh vuốt với chiến thuật bí mật, bất ngờ, chắc thắng!
Thông thường, hổ lựa chọn
mục tiêu, rạp mình tiếp cận con mồi hoặc thu mình kiên nhẫn chờ đợi hàng giờ….
Nó tập trung cao độ, quan sát con mồi không chớp mắt. Khi vừa tầm bật nhảy,
chúa sơn lâm mới bất ngờ thực hiện cú vồ chí tử khiến nạn nhân không kịp trở
tay. Thành ngữ Hổ thị đam đam 虎視眈眈 - Nhìn đăm đăm như hổ, ý chỉ cái ánh
mắt chăm chú, nhìn xoáy vào ai như cái nhìn của mãnh hổ rình mồi vậy.
Ưng lập như miên, hổ
hành tự bệnh
Ưng, cắt, đại bàng được
mệnh danh là chúa tể bầu trời, trong khi hổ được tôn xưng là chúa sơn lâm. Cả
hai loài cầm thú này đều có một đặc điểm chung: lúc bình thường thì thu mình,
hiền lành chậm chạp tựa hồ vô hại, nhưng khi lâm sự thì cực kỳ nhanh nhẹn, dũng
mãnh. Lão ưng giữ vẻ trầm ngâm trên mỏm đá cành cây, tư lự hàng giờ liền như một
triết gia hay nhà đạo đức. Trong khi lão hổ rời hang chuẩn bị cho “những chiều
lênh láng máu sau rừng” với dáng đi thất thểu như một kẻ ốm. Câu Ưng lập như
miên, hổ hành tự bệnh 鷹立如眠虎行似病 - Ưng đậu như ngủ, hổ đi tựa bệnh, ý
nói kẻ có trí tuệ, sức mạnh thực sự thường không khoa trương hay để lộ chân tướng.
Như hổ thiêm dực
Dân gian có câu Có sừng
thì đừng có nanh. Tạo hoá không cho ai tất cả, mà cũng không lấy đi của ai tất
cả.
Tương truyền, khi dạy võ
cho hổ, mèo nhận thấy bản tính học trò độc ác nên còn ngón võ cuối cùng là leo
trèo, sư phụ mèo đã không truyền dạy, phòng khi kẻ hung bạo này phản thầy. Bởi
thế tuy trong thực tế chúa sơn lâm vẫn leo trèo được, nhưng vì “học lỏm” nên
ngón nghề này không giỏi. Thế nên dù rất mạnh, hổ vẫn có điểm yếu của mình.
Thành ngữ Như hổ thiêm dực 如虎添翼 - Như hổ thêm cánh, ý chỉ hổ vốn dũng
mãnh, nếu có thêm đôi cánh bay nhảy nữa thì sức mạnh ấy sẽ trở nên vô song. Câu
này thường được dùng với nghĩa đã mạnh càng thêm mạnh, đã hung ác càng thêm
hung ác.
Nhất sơn bất dung lưỡng
hổ
Hổ chỉ ghép đôi khi đến
mùa sinh sản. Bình thường nó ưa sống đơn độc, một mình làm chủ giang sơn. Thế
nên Sơn sơn hữu lão hổ, xứ xứ hữu cường nhân 山山有老虎處有強人 - Ngọn núi nào cũng có một con hổ, xứ
nào cũng có một kẻ mạnh; Nhất sơn bất dung lưỡng hổ 一山不容二虎 - Một núi
không thể có hai hổ cùng chung sống.
Long bàn hổ cứ
Khi vồ mồi, tiếng gầm
thét kinh thiên động địa của hổ khiến muôn loài phải khiếp vía. Thế nhưng điều
đó chưa đáng sợ bằng lúc hổ ẩn mình đợi thời. Bởi vậy, dưới cái nhìn của nhà
phong thuỷ Long bàn hổ cứ 龍蟠虎踞 là thế đất quý. Long bàn 龍蟠 (rồng cuộn) là
thế ẩn tàng, đối với hổ cứ 虎踞 (hổ ngồi) chỉ uy dũng mà không lộ tướng,
ví với vẻ hiểm yếu, hùng vĩ của cuộc đất đế vương hoặc chỉ nơi anh hùng hào kiệt
chiếm cứ.
Hổ phụ vô khuyển tử
Hổ thuộc dòng dõi dũng
mãnh kiêu hùng. Dân gian mượn hổ để ví với trường hợp cha nào con nấy, cha tài
giỏi sinh con tài giỏi: Hổ phụ sinh hổ tử 虎父生虎子 - Cha hổ sinh con hổ; Hổ phụ vô khuyển
tử 虎父無犬子
- Cha hổ không có con là chó; Hổ câu hữu thực ngưu chi khí 虎駒有食牛之氣 - Hổ con mới
sinh đã có khí thế nuốt trâu. Thế nhưng trong thực tế cũng có trường hợp đáng
thất vọng, Cha giỏi sinh con hèn: Hổ phụ sinh cẩu tử 虎父生狗子 - Cha hổ
sinh con chó.
Hổ lạc bình dương bị
khuyển khi
Rừng núi là lãnh địa của
hổ. Những lúc ngủ vùi hay đi săn mồi, hổ đều cần địa hình cỏ cây, hang động để ẩn
mình, che chở. Bởi thế, một khi Điệu hổ ly sơn 調虎離山 - Đưa hổ rời núi; Hổ lạc bình dương 虎落平陽 (Hổ xuống đồng
bằng) thì chúa sơn lâm chẳng khác nào kẻ bị bẻ hết nanh vuốt, đến con chó cũng
coi thường (bị khuyển khi 被犬欺). Hàm ý dân gian dù mạnh như hổ mà bị
mất điều kiện, địa bàn hoạt động thì cũng trở thành thất thế, khiến ai cũng có
thể xem thường, kể cả những kẻ vốn rất hèn mọn trong con mắt của kẻ bị thất thế
kia.
Nam thực như hổ, nữ thực
như miêu
Hổ thuộc họ nhà mèo, lại
“thọ giáo thầy mèo”, nên hầu như mọi tập tính đều giống mèo. Thế nhưng riêng nết
ăn, hổ và mèo lại đối lập nhau hoàn toàn. Mèo ăn uống nhỏ nhẻ, từ tốn bao nhiêu
thì hổ ngốn ngấu, ăn tươi nuốt sống con mồi nhanh bấy nhiêu. Thế nên dân gian
có câu Lang thốn hổ yết - 狼吞虎嚥 - Ăn như hổ sói; Ăn như hùm đổ đó…
Hổ độc bất ngật nhi hổ
Hổ cực kỳ hung bạo, độc
ác. Độc ác hung bạo đến mức tưởng như chúng không có tình mẫu tử hay đồng loại.
Tuy nhiên, Hổ độc bất ngật nhi hổ 虎毒不吃兒虎 - Hùm dữ không ăn thịt con; Hổ lang
dã hữu phụ tử tình 虎狼也有父子情
- Hổ sói cũng có tình cha con.
Dân gian mượn hình tượng
dã thú để lên án những kẻ đối xử độc ác với chính đứa con rứt ruột đẻ ra. Làm
người mà tình mẫu tử không bằng hổ dữ…
HÒANG TUẤN CÔNG
Nhận xét
Đăng nhận xét