Chuyển đến nội dung chính
TỪ NGUYÊN CỦA 1 SÔ TÊN CHỈ CON VẬT
TỪ
NGUYÊN CỦA 1 SÔ TÊN
CHỈ CON
VẬT
Trước
nhất là tên của con chó. Tiếng Hán có hai từ chỉ “chó” quen thuộc với nhiều
người Việt là cẩu (đặc biệt là câu tục ngữ “treo đầu dê, bán thịt chó” là “dịch
phẩm” từ câu “quải dương đầu, mại cẩu nhục” [掛羊頭賣狗肉] ) và khuyển (như trong nghĩa khuyển, quân
khuyển, cảnh khuyển).
Chó là
điệp thức của một từ ghi bằng chữ [㹥], mà âm Hán Việt là chú, có nghĩa là “chó
vàng đầu đen”. Tương quan U « O có thể thấy qua: du < dù [𨵦], liếc, dòm, nhìn
trộm « dò trong dò la, dò xét; dụ [喻], nói cho hiểu « dò trong dặn dò; chữ nho [儒] theo đúng phiên
thiết phải đọc là nhu... Chữ khuyển [犬] còn có một điệp thức là cún, có nghĩa là “chó con”. Còn
chữ cẩu [狗]
bộ khuyển [犭]
thì được Vương Lực chứng minh là đồng nguyên với chữ cẩu [豿] bộ trĩ/trãi [豸], có nghĩa là “gấu
con, hổ con” (Đồng nguyên tự điển, Thương vụ ấn thư quán, Bắc Kinh, 1997,
tr.182-183). Hai chữ cẩu đồng nguyên này có một điệp thức là gấu trong bàn tay
gấu, mật gấu.
Cày
trong cày cáo bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ [猉] mà âm Hán Việt là
kỳ, có nghĩa là “chó con”. Còn cáo thì bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ [狡], mà âm Hán Việt
hiện hành là giảo, như trong giảo hoạt, giảo quyệt nhưng âm gốc là cảo. Trong
Quảng vận, chữ này thuộc vận mục xảo [巧], tiểu vận cảo (cổ
xảo thiết [古巧切]), có một nghĩa là “chó con”, mà cáo là điệp
thức chỉ con vật được cho là xảo quyệt, nham hiểm. Chồn thì bắt nguồn ở một từ
ghi bằng chữ [𤟢] mà âm Hán Việt là độn, có nghĩa là
“chó”.
AN CHI
Nhận xét
Đăng nhận xét