Chuyển đến nội dung chính
TỪ NGUYÊN 1 SỐ ĐỒ DÙNG MANG/ĐI DƯỚI CHÂN
TỪ
NGUYÊN 1 SỐ ĐỒ DÙNG
MANG/ĐI DƯỚI CHÂN
Guốc là
một từ Việt gốc Hán, bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ [屩], mà âm Hán Việt là
cước, có nghĩa là “dép cỏ” (thảo hài [草鞋]).
Tiếng
Hán còn có một từ mà chữ viết là [屐], âm Hán Việt là kích, có nghĩa là “hài gỗ” (mộc đầu hài
[木頭鞋]); “giày dép nói
chung” (hài đích thông xưng [鞋的通稱]).
Vương Lực đã chứng minh rằng cước và kích là những đồng nguyên tự (Đồng nguyên
tự điển, Thương vụ ấn thư quán, Bắc Kinh, 1997, tr.270). Vậy chẳng có gì lạ nếu
trong tiếng Hán cước có nghĩa là “dép cỏ” mà trong tiếng Việt thì guốc lại làm
bằng gỗ. Sự “tréo ngoe” này là một hiện tượng thường thấy trong sự chuyển nghĩa
từ tiếng Hán sang tiếng Việt, mà thí dụ điển hình là trong tiếng Hán khố [褲] là “quần”, còn quần
[裙] trong tiếng Hán thì
lại là “váy” (của phụ nữ).
Về
tương quan C « G giữa cước và guốc, ta còn có những thí dụ rất quen thuộc: -
cân trong cân não « gân trong gân guốc; - cận trong cận thị « gần trong xa gần;
- cấp trong khẩn cấp « gấp trong gấp rút; - đặc biệt là trường hợp cẩu [豿] « gấu mà chúng tôi
đã đưa ra trong kỳ trước (Thanh Niên số ra ngày 8.11.2020).
Dép là
một từ Việt gốc Hán, bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ [屧], mà âm Hán Việt là
tiếp, có nghĩa là “guốc gỗ” (mộc kích [木屐]); “đế bằng gỗ của giày thời xưa” (“cổ đại hài đích mộc
để” [古代鞋的木底]). Chữ tiếp [屧] vốn viết là [屟], hài thanh bằng chữ
diệp [枼] nên tiếp « dép là
chuyện hoàn toàn bình thường.
Giày
bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ [鞋], mà âm Hán Việt là hài, có nghĩa là “giày dép”. Đây là
một hình thanh tự mà nghĩa phù là cách [革] còn thanh phù là khuê [圭]; chữ khuê [圭] này lại dùng để hài thanh cho chữ giai [佳], có phụ âm đầu là
GI. Vậy cũng không có gì lạ nếu giày (có phụ âm đầu GI) là điệp thức của hài [鞋].
Bản
thân chữ hài [鞋]
cũng là một từ Hán Việt độc lập trong tiếng Việt, mà Từ điển tiếng Việt 2020
của Trung tâm Từ điển học do Hoàng Phê chủ biên giảng là “[cũ] loại giày thời
xưa, thường có mũi cong và phía ngoài có thêu hình”.
Ủng bắt
nguồn ở một từ ghi bằng chữ [𩍓] mà âm Hán Việt là ung và Hán ngữ đại tự
điển giảng là “ngoa, miệt đích đông nhi” [靴袜的筒儿], tức “[phần] ống của ủng, của tất/vớ”.
Bít tất
là biến thể ngữ âm của hai chữ Hán [蔽膝] mà âm Hán Việt hiện hành là tế tất, có nghĩa là “vải
che đùi và đầu gối, na ná cái tạp dề ngày nay”. Nhưng chữ bít [蔽] vốn có phụ âm đầu B
nên tế tất [蔽膝]
vốn là bế tất rồi do chuyển biến ngữ âm mà trở thành bít tất trong tiếng Việt.
Hiện nay nhiều người đã bỏ bít mà chỉ dùng tất; rồi ta chẳng những có tất chân
mà còn có cả tất tay, tức cái găng. Tiếng Hán cũng có hình thức nói tắt tế tất
thành tất mà viết là [鞸]
hoặc [韠].
Tất
chân thì trong Nam gọi là vớ. Vớ là một từ Việt gốc Hán, bắt nguồn ở một từ ghi
bằng chữ [幃]
mà âm Hán Việt là vi/huy, mà Hán ngữ đại tự điển giảng là “quần đích chính diện
nhất bức” [裙的正面一幅],
tức “mặt chính của chiếc váy” (cũng tương đương với “tế tất”) còn Dictionnaire
classique de la langue chinoise của F, S, Couvreur thì dịch là
“genouillères”(miếng đệm đầu gối). Nhân tiện, xin nói thêm: Với nghĩa “hương
nang” (túi đựng chất thơm) chữ vi/huy [幃] còn có một điệp thức là ví trong ví tiền.
AN CHI
Nhận xét
Đăng nhận xét