TIẾNG VIỆT MƯỢN TỪ TIẾNG PHÁP
TIẾNG VIỆT
MƯỢN TỪ TIẾNG PHÁP
Sang đến thời kỳ “một
trăm năm đô hộ giặc Tây”. Việt Nam nói chung và Sài Gòn nói riêng đã trở thành
thuộc địa của Pháp. Cũng vì thế, tiếng Pháp đã có ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống
văn hóa, xã hội của người Việt. Tiếng Pháp được sử dụng trong các văn bản, giấy
tờ của Chính phủ Bảo hộ và trong giảng dạy ở nhà trường, bên cạnh đó là các loại
sách báo thâm nhập đời sống thường ngày của người dân.
Chữ Quốc ngữ, vốn được
tạo ra bởi một số nhà truyền giáo Tây phương, đặc biệt là linh mục Alexandre de
Rhodes (tác giả cuốn Từ điển Việt-Bồ-La năm 1651), với mục đích dùng ký tự
Latinh làm nền tảng cho tiếng Việt. “Latinh hóa” chữ Việt ngày càng được phổ biến
để trở thành Quốc ngữ, chịu ảnh hưởng bởi những thuật ngữ, từ ngữ mới của ngôn
ngữ Tây phương, nổi bật nhất là văn hóa Pháp.
Khi chiếm được ba tỉnh
Nam Bộ, người Pháp đã nắm trong tay một công cụ vô cùng hữu hiệu để truyền bá
văn hoá đồng thời chuyển văn hoá Nho giáo sang văn hoá Phương Tây. Tờ Gia Định
Báo là tờ báo đầu tiên được phát hành bằng chữ Quốc ngữ vào năm 1865, khẳng định
sự phát triển và xu hướng của chữ Quốc Ngữ như là chữ viết chính thức của nước
Việt Nam sau này.
Linh mục Alexandre de Rhodes.
Đối với người bình dân, việc
tiếp nhận tiếng Pháp đến một cách rất tự nhiên. Người ta có thể nói “Cắt tóc,
thui dê” để chỉ ngày Quốc khánh Pháp 14/7, Quatorze Juliet. Người ta có thể
dùng tiếng Tây “bồi” nhưng lại không cảm thấy xấu hổ vì vốn liếng tiếng Pháp của
mình vốn chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Để tả con cọp, người ta có thể dài
dòng văn tự: “tí ti giôn, tí ti noa, lủy xực me-xừ, lủy xực cả moi”. Diễn nôm
câu này là một chút màu vàng (jaune), một chút màu đen (noir), nó ăn thịt ông
(monsieur), nó ăn thịt cả tôi (moi).
Nhân đây cũng xin nói thêm về
những đại danh từ nhân xưng như toa (anh, mày – toi), moa hay mỏa (tôi, tao –
moi), en hay ẻn (cô ấy, chị ấy – elle), lúy hay lủy (anh ấy, hắn – lui), xừ hay
me-xừ (ông, ngài – monsieur)… Học trò trường Tây, những nhà trí thức khoa bảng
hay cả những kẻ tỏ ra “thời thượng” ngày xưa thường dùng những đại từ này. Cũng
vì thế có một câu mang tính cách châm chọc: “Hôm qua moa đi xe lửa, buồn tiểu
quá nên moa phải… trên đầu toa” (toa ở đây có 2 nghĩa: toa xe lửa nhưng cũng có
ý là toi (anh) trong tiếng Pháp).
Nói thêm về hỏa xa, người
Pháp xây dựng đường xe lửa đầu tiên ở Việt Nam tại Sài Gòn từ năm 1881. Đây là
đoạn đường ray (rail) từ Cột cờ Thủ Thiêm đến bến xe Chợ Lớn, dài 13km. Mãi đến
năm 1885 chuyến xe lửa đầu tiên mới được khởi hành và một năm sau, tuyến đường
Sài Gòn-Mỹ Tho dài 71km bắt đầu hoạt động. Sau đó, mạng lưới đường sắt được xây
dựng trên khắp lãnh thổ Việt Nam, dùng kỹ thuật của Pháp với khổ đường ray 1
mét. Tính đến năm 1975 miền Nam có khoảng 1.240km đường ray nhưng vì chiến cuộc
nên chỉ được sử dụng khoảng 60%.
Nhà ga cũng có xuất xứ từ tiếng
Pháp gare. Ga là công trình kiến trúc làm nơi cho tàu hoả, tàu điện hay máy bay
đỗ để hành khách lên xuống hoặc để xếp dỡ hàng hoá. Từ sự vay mượn này ta có
thêm những từ ngữ như sân ga, trưởng ga, ga chính, ga xép… Nhân nói về ga tưởng
cũng nên nhắc lại động từ bẻ ghi (aiguiller) tức là điều khiển ghi (aiguille)
cho xe lửa chuyển sang đường khác. Trong tiếng Việt, bẻ ghi còn có nghĩa bóng
là thay đổi đề tài, chuyển từ chuyện mình không thích sang một đề tài khác.
Xe lửa ngày xưa.
Có những từ ngữ xuất xứ từ
tiếng Pháp nhưng vì lâu ngày dùng quen nên người ta cứ tưởng chúng là những từ
“thuần Việt”. Chẳng hạn như cao su (caoutchouc), một loại cây công nghiệp được
người Pháp du nhập vào Việt Nam qua hình thức những đồn điền tại miền Nam. Ngôn
ngữ tiếng Việt rất linh động trong cách dùng từ ngữ cao su qua các biến thể như
giờ cao su (giờ giấc co dãn, không đúng giờ), kẹo cao su (chewing-gum)…
Nhà băng (banque) là một chữ
quen dùng trong ngôn ngữ hàng ngày còn xà bông cũng là loại chữ dùng lâu ngày
thành quen nên ít người để ý xuất xứ của nó là từ tiếng Pháp, savon. Ở miền Bắc,
xà bông được cải biên thành xà phòng, là chất dùng để giặt rửa, chế tạo bằng
cách cho một chất kiềm tác dụng với một chất béo. Nổi tiếng ở Sài Gòn xưa có xà
bông Cô Ba của Trương Văn Bền, dùng dầu dừa làm nguyên liệu chính.
Chúng ta thấy ngôn ngữ Việt
vay mượn từ tiếng Pháp trong rất nhiều lãnh vực. Về ẩm thực, tiếng Việt thường
mượn cả cách phát âm đến tên của các món ăn có xuất xứ từ phương Tây. Vào nhà
hàng, người phục vụ đưa ra mơ-nuy (thực đơn – menu) trong đó có những món như
bít-tết (chữ bifteck của Pháp lại mượn từ nguyên thủy tiếng Anh – beefsteak),
những thức uống như bia (rượu bia – bière, được chế biến từ cây hốt bố hay còn
gọi là hoa bia – houblon), rượu vang (rượu nho – vin)…
Về thịt thì có xúc-xích
(saucisse), pa-tê (paté), giăm-bông (jambon), thịt phi-lê (thịt thăn, thịt lườn
– filet). Các món ăn thì có ra-gu (ragout), cà-ri (curry)… Khi ăn xong, khách xộp
còn cho người phục vụ tiền puộc-boa (tiền thưởng – pourboire). Ngày nay từ boa
hay bo được dùng phổ biến với ý nghĩa cho tiền thưởng, hay còn gọi là tiền
phong bao hoặc tiền phục vụ.
Từ rất lâu, ở Sài Gòn xuất
hiện các loại bánh mì theo kiểu Pháp, miền Bắc lại gọi là bánh tây với hàm ý du
nhập từ Pháp. Có nhiều loại bánh đặc biệt như bánh mì ba-ghét (loại bánh mì nhỏ,
dài – baguette), bánh pa-tê-sô (một loại bánh nhân thịt, ăn lúc nóng vừa dòn vừa
ngon – pathé chaud), bánh croát-xăng (hay còn gọi là bánh sừng bò – croissant).
Người Sài Gòn thường ăn sáng
với bánh mì kèm theo nhiều kiểu chế biến trứng gà như ốp-la (trứng chỉ chiên một
mặt và để nguyên lòng đỏ – oeuf sur le plat), trứng ốp-lết (trứng tráng –
omelette) hoặc trứng la-cóc (trứng chụng nước sôi, khi ăn có người lại thích
thêm một chút muối tiêu – oeuf à la coque).
Bánh “pathé chaud”.
Món không thể thiếu trong bữa
ăn sáng là cà phê (café). Cà phê phải được lọc từ cái phin (filtre à café) mới
đúng điệu. Người miền Bắc ít uống cà phê nên sau năm 1975 vào Sài Gòn nhiều người
đã mô tả cái phin cà phê một cách rất “gợi hình”: “cái nồi ngồi trên cái cốc”.
Ngôn ngữ về trang phục cũng
chịu ảnh hưởng rất nhiều từ tiếng Pháp. Bình thường hàng ngày người ta mặc áo
sơ-mi (chemise), cổ tay có cài khuy măng-sét (manchette). Khi đi tiệc tùng hoặc
hội họp thì mặc áo vét (vest) hay bộ vét-tông (veston) kèm theo chiếc cà-vạt
(cravate) trên cổ áo sơ mi. Trời hơi lạnh có thể mặc bên trong áo vét một chiếc
gi-lê (gilet) và hai tay mang găng (gants) cho ấm.
Ngay cả quần áo lót bên
trong cũng mượn từ tiếng Pháp. Phụ nữ thì mang xú-chiêng (nịt ngực –
soutien-gorge) và xì-líp (slip). Nam giới thì mặc áo may-ô (maillot) bên trong áo sơ-mi. Mặc quần thì phải
có xanh-tuya (dây nịt – ceinture) và khi trời nóng thì mặc quần sóc (quần ngắn,
tiếng Pháp là short được mượn từ tiếng Anh shorts).
Trang phục có thể được
may từ các loại cô-tông (vải bông – coton) hoặc bằng len (làm từ lông cừu –
laine). Trên đầu có mũ phớt (feutre, một loại mũ dạ), mũ be-rê (béret, một loại
mũ nồi)… dưới chân là đôi dép săng-đan (sandales), sau này người Sài Gòn lại chế
thêm dép sa-bô (sabot nguyên thủy tiếng Pháp là guốc).
Mũ phớt.
Đi lính cho Tây thì được
phát đôi giày săng-đá (giày của lính – soldat). Loại lính nhảy dù, biệt kích
(ngày nay là đặc công) gọi là còm-măng-đô (commando). Một đoàn xe quân sự có hộ
tống được gọi là công-voa (convoi, trông cứ như con voi trong tiếng Việt!). Thuật
ngữ quân sự chỉ những công sự xây đắp thành khối vững chắc, dùng để phòng ngự,
cố thủ một nơi nào đó được gọi là lô-cốt có xuất xứ từ blockhaus. Ngày nay, chữ
lô cốt còn được dùng chỉ những nơi đào đường, thường được rào chắn, vây kín mặt
đường, cản trở lưu thông.
Xưa kia cảnh sát được
gọi qua nhiều tên: mã-tà (xuất xứ từ tiếng Pháp matraque, có nghĩa là dùi cui),
sen đầm (gendarme), phú-lít (police), ông cò (commissaire)… Lực lượng thuế quan
(ngày nay gọi là hải quan) được gọi là đoan (douane), lính đoan còn có nhiệm vụ
đi bắt rượu lậu là một mặt hàng quốc cấm thời Pháp thuộc.
Nông phẩm thì có đậu
cô-ve (còn gọi tắt là đậu ve – haricot vert), đậu pơ-tí-poa (đậu Hòa Lan có hột
tròn màu xanh – petits-pois), bắp sú (bắp cải – chou), súp-lơ (bông cải –
chou-fleur), xà lách (salade), cải xoong (còn gọi là xà lách xoong – cresson),
cà-rốt (carotte), ác-ti-sô (artichaut)…
Tiếng Tây cũng đi vào
âm nhạc. Từ điệu valse, tango… đến đàn piano (dương cầm), violon (vĩ cầm), kèn
harmonica (khẩu cầm)… Ở các đăng-xinh (khiêu vũ trường – dancing) luôn có ọc-két
(ban nhạc – orchestre) chơi nhạc và xuất hiện một nghề mới gọi là ca-ve (gái nhẩy
– cavalière). Ngày nay người ta dùng từ ngữ ca-ve với ý chỉ tất cả những cô gái
làm tiền, khác hẳn với ý nghĩa nguyên thủy của nó.
Người phương Tây dùng
nhiều sữa và các sản phẩm của sữa nên đã đưa vào ngôn ngữ tiếng Việt những từ
ngữ như bơ (beurre), pho-mát (fromage), kem (crème)… Nổi tiếng ở Sài Gòn có hai
nhãn hiệu sữa Ông Thọ (Longevity) và Con Chim (Nestlé) như đã nói ở phần trên.
Có người cắc cớ thắc mắc,
đàn ông mà lại là ông già thì làm sao có sữa? Xin thưa, hình tượng “Ông Thọ chống
gậy” trên hộp sữa chỉ muốn nói lên tuổi thọ (longévité) của người dùng sữa. Trường
hợp của Nestlé cũng vậy. Con Chim thì làm gì có sữa? Thực ra thì logo của
Nestlé là một tổ chim (gồm chim mẹ và 2 chim con) nhưng người Việt mình cứ gọi
là sữa Con Chim cho tiện.
Logo của Nestlé.
Thế mạnh của Nestlé là
các sản phẩm sữa bò khác như Núi Trắng (Lait Mont-Blanc) và sữa bột Guigoz.
Ngày xưa, những gia đình trung lưu đều nuôi con bằng sữa bột Guigoz. Tôi vẫn
còn nhớ cảm giác khi ăn vụng một thìa Guigoz của em út: vừa bùi, vừa béo, những
hạt sữa nhỏ ly ty như tan ngay trong miệng.
Sữa bột Guigoz được chứa
trong một cái lon bằng nhôm, cao 15cm, có sọc ngang, bên trong lại có sẵn thìa
để giúp người pha dễ đo lường. Khi dùng hết bột, các bà nội trợ không vứt lon
như những loại sữa khác vì lon Guigoz có nắp đậy rất kín nên được “tái sử dụng”
trong việc đựng đường, muối, tiêu, bột ngọt…
Những người thiết kế
lon Guigoz chắc hẳn chưa bao giờ nghĩ cái lon lại có nhiều công dụng sau khi sữa
bột ở bên trong đã dùng hết. Lon Guigoz đã theo chân những tù nhân cải tạo như
một vật “bất ly thân”. Những người “tưởng đi học có 10 ngày” mang theo lon
Guigoz để đựng các vật dụng linh tinh như bàn chải, kem đánh răng, vài loại thuốc
cảm cúm, nhức đầu để phòng khi cần đến..
Lon Guigoz thường được
chúng tôi gọi tắt là “lon gô”. Học tập càng lâu lon gô càng tỏ ra “đa năng, đa
hiệu”. Muốn múc nước từ giếng lên thì dùng gô làm gàu, buổi sáng thức dậy dùng
gô làm ly đựng nước súc miệng, nhưng gô còn tỏ ra đặc biệt hữu ích khi dùng như
một cái nồi để nấu nước, thổi cơm, luộc măng (lấy ở trên rừng), luộc rau, luộc
khoai mỳ (“chôm chỉa” khi đi “tăng gia sản xuất”)… nghĩa là làm được tất cả mọi
công việc bếp núc.
Chúng tôi ở trong một
căn cứ cũ của Sư đoàn 25 tại Trảng Lớn (Tây Ninh) nên có cái may là còn rất nhiều
vỏ đạn 105 ly. Người cải tạo săn nhặt những vỏ đạn về và chế thành một cái lò
“dã chiến” và lon gô để vào trong lò vừa khít, tưởng như 2 nhà thiết kế vỏ đạn
và lon gô đã ăn ý với nhau “từng centimét” ngay từ khâu thiết kế ban đầu! Ai
chưa có lon gô thì nhắn gia đình tìm để đựng đồ ăn mỗi khi được vào trại “thăm
nuôi”.
Sau 30/4/75 lon gô trở
nên hữu dụng vì công nhân, sinh viên, học sinh dùng lon gô để đựng cơm và thức
ăn cho bữa trưa. Người Sài Gòn thường đeo một cái túi đựng lon gô khi đi làm, một
hình ảnh không thể nào quên của “thời điêu linh” sau 1975.
Tình cờ tôi bắt gặp
trang web của Pháp quảng cáo bán lon sữa Guigoz cho những người sưu tầm, giá
lên tới 15 euro cho một lon Guigoz xưa, dĩ nhiên là chỉ có lon không, không có
sữa!
Lon Guigoz.
Người Pháp khi đến Việt
Nam mang theo cả chiếc ô-tô (xe hơi – auto, automobile). Xe xưa thì khởi động bằng
cách quay ma-ni-ven (manivelle) đặt ở đầu xe, sau này tân tiến hơn có bộ phận đề-ma-rơ
(khởi động – démarreur). Sau khi đề (demarrer), xe sẽ nổ máy, sốp-phơ (người
lái xe – chauffeur) sẽ cầm lấy vô-lăng (bánh lái – volant) để điều khiển xe… Về
cơ khí thì người Sài Gòn dùng các từ ngữ như cờ-lê (chìa vặn – clé), mỏ-lết
(molete), đinh vít (vis), tuốc-nơ-vít (cái vặn vít – tournevis), công-tơ (thiết
bị đồng hồ – compteur), công tắc (cầu dao – contact)…
Bây giờ nói qua chuyện
xe đạp cũng có nhiều điều lý thú. Chiếc xe đạp trong ngôn ngữ Việt mượn rất nhiều
từ tiếng Pháp. Trước hết, phía trước có guy-đông (thanh tay lái – guidon), dưới
chân có pê-đan (bàn đạp – pedale), săm (ruột bánh xe – chambre à air) và phía
sau là bọc-ba-ga (để chở hàng hóa – porte-bagages).
Chi tiết các bộ phận
trong xe đạp cũng… Tây rặc. Có dây sên (dây xích – chaine), có líp (bộ phận của
xe đạp gồm hai vành tròn kim loại lồng vào nhau, chỉ quay tự do được theo một
chiều – roue libre), rồi phanh (thắng – frein) ở cả bánh trước lẫn bánh sau.
Thêm vào đó còn có các bộ phận bảo vệ như gạc-đờ-bu (thanh chắn bùn –
garde-boue) và gạc-đờ-sên (thanh che dây xích – garde-chaine).
Xe đạp Mercier ngày xưa có gắn ống
bơm, dynamo và cả lon Guigoz.
Mỗi chiếc xe đạp xưa
còn trang bị một ống bơm (pompe) để phòng khi lốp xe xuống hơi. Bên cạnh đó người
ta gắn một chiếc đy-na-mô (dynamo – bộ phận phát điện làm sáng đèn để đi vào
ban đêm). Tôi còn nhớ khi tháo tung một cái dynamo cũ thấy có một cục man châm
gắn vào một trục để khi trục quay sẽ sinh ra điện.
Hồi xửa hồi xưa, đi xe
đạp không đèn vào ban đêm rất dễ bị phú-lít thổi phạt nên nếu xe không đèn, người
lái phải cầm bó nhang thay đèn! Sài Gòn xưa có các nhãn hiệu xe đạp mổi tiếng
như Peugoet, Mercier, Marila, Follis, Sterling… Đó là những chiếc xe đã tạo nên
nền “văn minh xe đạp” của những thế hệ trước và một nền “văn hóa xe đạp” còn
lưu lại trong ngôn ngữ tiếng Việt của người Sài Gòn xưa.
Nguyễn Ngọc Chính
Nhận xét
Đăng nhận xét