SỰ TRÙNG HỢP THÚ VỊ TRONG THƠ
SỰ TRÙNG HỢP
THÚ VỊ TRONG THƠ
Trong thơ, “các tư tưởng lớn thường gặp
nhau”, cũng có khi chịu ảnh hưởng lẫn nhau, tạo nên sự trùng hợp thú vị khiến
cho người thưởng thức vô cùng thích thú.
1.
1.
Trong “Đoạn trường tân thanh”, lúc
Kiều đàn cho Kim Trọng nghe, Nguyễn Du tả tiếng đàn của Kiều, trong đó có hai
câu:
Trong
như tiếng hạc bay qua,
Đục
như tiếng suối mới sa nửa vời.
Trên trang phụ trương văn chương
báo T.M. ra ngày 3-5-1940 ở Hà Nội, nhà văn Cuồng Sĩ cho rằng Nguyễn
Du đã dịch từ hai câu thơ chữ Hán:
“Thanh
như hạc lệ phi thiên thượng,
Cấp
tự lưu tồn tống tiểu khê”.
nghĩa là:
“Trong như tiếng hạc bay trên trời,
GẤP như suối chảy vào lạch nhỏ”.
Do đó, ông cho rằng viết: “ĐỤC như
nước suối mới sa nửa vời” là sai. Phải viết:“GIỤC như nước suối mới sa nửa
vời” mới đúng, vì chữ CẤP nghĩa là GẤP, là GIỤC (giục
giã).
Nhà phê bình Văn Hạc phản bác ý kiến ấy,
cho rằng trước khi phê phán, ông Cuồng Sĩ hãy tìm xem các bản Kiều cổ bằng chữ
Nôm trước đã, coi người ta chép thế nào, chứ đừng căn cứ vào các bản quốc ngữ
mà tự ý sửa chữa.
Rồi ông Văn Hạc viết tiếp: “Trong
đoạn đó, cụ Nguyễn Du tả tiếng đàn của nàng Kiều: tiếng trong như tiếng hạc bay
qua, tiếng đục như tiếng suối dội, tiếng khoan như tiếng gió thoảng, tiếng mau
như tiếng trời đổ mưa:
TRONG
như tiếng hạc bay qua,
ĐỤC
như tiếng suối mới sa nửa vời.
Tiếng
KHOAN như gió thoảng ngoài,
Tiếng
MAU sầm sập như trời đổ mưa.
Tiếng TRONG là tiếng thanh thanh lanh lảnh,
the thé (dây văn), tiếng ĐỤC là tiếng ồ ồ (dây vũ), tiếng KHOAN là tiếng từ từ,
tiếng MAU là tiếng vội, gấp.
Nếu đổi câu: “ĐỤC như nước suối mới
sa nửa vời” thành: “GIỤC như nước suối mới sa nửa vời” thì câu
đó thành ra thừa và bắt cụ Nguyễn Du nói lắp vì GIỤC tức là MAU, mà tả tiếng
đàn MAU, tác giả đã viết “Tiếng MAU sầm sập như trời đổ mưa” ở câu dưới”.
Đó là chưa kể chữ ĐỤC đối với chữ TRONG ở
câu trên, cũng như chữ MAU đối với chữ KHOAN ở hai câu dưới là dụng ý của tác
giả, mặc dù thơ lục bát không bắt buộc phải đối như thơ Đường. Mà cho dù cụ
Nguyễn Du dịch hai câu thơ chữ Hán đi nữa thì cụ cũng có quyền sửa đổi để tránh
điệp ý và thêm phần sáng tạo chứ!
Trong cuốn Kiều dịch ra Pháp
văn, cụ Nguyễn Văn Vĩnh (1882-1936) dịch chữ trên đây là TROUBLE, SOURD thì
cũng có nghĩa là ĐỤC. Cụ Nguyễn lại cho rằng 4 câu thơ ấy dịch từ 4 câu thơ chữ
Hán nhưng đảo lộn thứ tự các câu:
“Sơ
nghi táp táp lương phong động,
Hựu
tự tiêu tiêu mộ vũ linh.
Cận
nhược lưu tồn lai bích chướng,
Viễn
như huyền hạc hạ thanh minh”
nghĩa là:
“Thoạt
đầu, tiếng đàn nhẹ nhàng như cơn gió mát thoảng qua,
Rồi
thì dồn dập như trận mưa rào buổi tối.
Tiếng
gần nghe như tiếng suối dội từ vách núi xuống,
Tiếng
xa nghe như tiếng hạc buông tự trời cao”.
Rồi cụ Nguyễn Văn Vĩnh dịch 4 câu thơ chữ
Hán trên đây ra tiếng Pháp:
“D’abord
c’est léger comme une douce brise qui souffle,
Puis
cela se précipite comme une averse du soir.
Entendu
de près, cela fait l’effet d’une eau courante qui rencontre un barrage,
De
loin, on dirait un vol de grues qui laisse tomber des voix clairs”.
Nếu cụ Nguyễn Văn Vĩnh đúng - mà chắc là
đúng - thì trong 4 câu thơ chữ Hán trên đây không có chữ CẤP (gấp, giục), do đó
sự phê phán của ông
Cuồng Sĩ không còn đứng vững nữa. Tiếc rằng
cả hai vị đều không ghi xuất xứ và tác giả của các câu thơ trên. Chỉ có cụ Trần
Trọng Kim (1882-1953) ghi trong cuốn Truyện Thúy Kiều: “Mấy câu này là dịch
bài thơ Cầm trong Đường thi” nhưng chúng tôi không tìm thấy bài thơ ấy
trong hàng chục cuốn thơ Đường.
2.
Nhà thơ Đông Hồ (1906-1969) ở Hà Tiên có
bài thơ “Mua áo” được nhiều người khen là thơ hay, trong đó có mấy
câu thật thú vị:
“Hàng bông mai biếc, màu em thích,
Màu với hàng, em đã dặn rồi.
Còn thước tấc, quên! Em chửa bảo,
Kích tùng bao rộng, vạt bao dài?
- Ô hay! Nghe hỏi mà yêu nhỉ!
Thước tấc anh còn lựa hỏi ai.
Rộng hẹp, tay anh bồng ẵm đó,
Ngắn dài, người mới tựa bên vai”.
Nhân đọc lại cuốn “Chương Dân thi
thoại” của cụ Phan Khôi, chúng tôi thấy có bài thơ mà ý tứ cũng tương tự
như bài trên. Cụ Phan kể:
“Có người mượn chuyện đàn bà mà mượn đến
chuyện rất tầm thường, viết ra nghe cũng thanh bai dễ chịu. Năm ngoái, tôi ở
Sài Gòn, có người bạn viết thư cậy kiếm chỗ làm. Tôi viết lại, hỏi muốn tiền
lương mỗi tháng bao nhiêu. Sau tiếp thư người bạn, mở ra coi, không phải là thư
mà chỉ có mấy câu lục bát:
“Cậy
chàng mua lụa Đồng Nai,
Chàng
sao lại hỏi vắn dài làm chi?
Đã
từng ăn cận ngồi kề,
Vóc
này bao nả, chàng thì nhớ cho.
Thì
chàng liệu lấy mà mua”.
Cũng tương tự như thế, trong một cuốn
sách thuộc loại hoạt kê của Trung Hoa in năm 1927, người ta đọc thấy một chuyện
như sau:
“Thi nhân hay tự ví mình với con gái như
mấy nhà thơ Đường chẳng hạn. Có một người hàn sĩ cậy bạn tìm giúp một nơi để ngồi
“gõ đầu trẻ”. Người bạn ấy viết thư hỏi anh ta muốn số tiền thù lao là bao
nhiêu, hàn sĩ nọ trả lời bằng một bài thơ:
Sách
mãi Ngô Lăng đoạn,
Hà
tu vấn đoản trường.
Thiếp
thân lang quán bão,
Xích
thốn tế tư lường.
Tạm dịch:
Cậy
mua đoạn Ngô Lăng,
Còn
hỏi chi vắn dài.
Mình
em, chàng ôm thường,
Thước
tấc chàng đà hay.
Kể ra mượn lời thơ để ký thác như thế
thì thật khéo”.
Chẳng biết lúc làm bài thơ “Mua
áo”, thi sĩ Đông Hồ có biết hai bài thơ này không?
HUYỀN
VIÊM
Nhận xét
Đăng nhận xét