TẾT NÓI CHUYỆN HOA MAI VÀNG – DƯA HẤU ĐỎ
TẾT NÓI CHUYỆN
HOA MAI VÀNG –
DƯA HẤU ĐỎ
Miền Nam nước
Việt, về dịp Tết, tiết trời nóng nực, khác với miền Bắc khí hậu mát mẻ. Hoa quả
dạo ấy cũng khác. Không đóa hoa thủy tiên:
Nhị vàng
cánh trắng hương thơm nức,
Lá biếc
thân trong vẻ nõn nà.
Không thấy
bông hoa đào tươi thắm của làng Nhật Tân, Yên Phụ, rung rinh hai bên lề đường
nhộn nhịp phố Hàng Lược để ta nhớ tới câu:
Liễu yếu
cùng chung phận má hồng,
Phấn son tô
điểm cảnh non bồng,
Trải bao
mưa nắng còn tươi thắm,
Xuân đến vẫn
cười với gió đông.
Nhưng trái
lại, Tết Nam Việt không có hoa đào đỏ thì đã có bông mai vàng. Bông mai vàng mọc
ở cành lá xanh tươi, cắm lọ độc bình Biên Hòa chẳng phải là không thi vị, và
khiến lòng ta:
Thẩn thơ
vui thú yên hà,
Mai là bạn
cũ, hạc là người quen.
Và Tết chơi
hoa mai khiến ta nhớ tới câu thơ cổ chỉ có mười chữ mà đọc xuôi đọc ngược thành
bài thơ tứ tuyệt mỗi câu 7 chữ:
Vị tình lai
ký nhất chi mai hữu biệt hoài
Vị tình lai
ký nhất chi mai,
Ký nhất chi
mai hữu biệt hoài.
Hoài biệt hữu
mai chi nhất ký,
Mai chi nhất
ký vị tình lai.
Tạm dịch
là:
Vị tình gửi
lại một cành mai,
Gửi một
cành mai có biệt hoài.
Hoài biệt
cành mai xin gửi lại,
Vị tình xin
lại với cành mai.
Ăn Tết
trong Nam làm ta nhớ tới cảnh nơi đất Bắc.
Đâu là cảnh
ba mươi Tết mà từ tờ mờ sáng đã thấy tiếng lợn làm thịt kêu eng éc, trong làng
xóm lác đác đã có mấy nhà dựng cành nêu. Cành nêu là một cây tre to và cao, đủ
cành đủ lá, cành còn tươi lá vẫn còn xanh, trên ngọn cây tre có treo ba trăm
nén vàng giấy. Ấy là cái tục cổ truyền của ta, dựng cành nêu tin tưởng để giữ
cho lũi quỉ nhà trời không xâm chiếm đất đai của mình về dịp đầu xuân. Cành nêu
đánh dấu bề cao, còn bề rộng là những hình vẽ bằng vôi như cót chứa thóc, cái
cung cái nỏ ở trên sân, ngoài ngõ, đề phòng quân trộm cướp gian phi khỏi xâm nhập
vào địa phận nhà…
Tuy xa nơi
quê cha, nhưng đến Tết chơi mai vàng cũng làm ta tưởng đến câu hát ví von trong
ruộng lúa xanh tươi của mấy cô đang làm cỏ nơi đồng ruộng Bắc Ninh hay Hưng Yên
Phố Hiến:
Ai đi đâu đấy
hỡi ai?
Hay là Trúc
đã nhớ Mai đi tìm?
Tìm em như
thể tìm chim,
Chim ăn bể
Bắc, đi tìm bể… Nam.
Đấy là hoa
mai vàng, một hương vị của Tết miền Nam. Nhưng còn hương vị thứ hai nữa, ấy là
trái dưa hấu. Vì cứ tới Tết Nguyên Đán thì có nhiều dưa hấu để làm cho mát lòng
người khi trời nóng gắt.
Trái dưa hấu
vỏ xanh hay trắng, ruột vàng hay đỏ, cứ đến Tết thì xuất hiện khắp các chợ từ
chốn thôn quê tới thành thị.
Đất đai và
khí hậu ở đây rất hợp cho nên dưa hấu mọc khỏe, quả rất sai và ăn ngon ngọt. Hầu
hết các tỉnh như Bến Tre, Gò Công, Chợ Lớn, Tây Ninh, Gia Định và miền Nam
Trung Việt như Bình Thuận, Phan Thiết, đều trồng nhiều.
Trong quá
dưa hấu có tới 90 phần trăm nước bổ, bốn phần trăm đường, 0,01 phần trăm vôi,
0,02 phần trăm dương-long-hoàn và 0,25 phần trăm hóa chất như ốc-xa-lát bồ-tạt.
Nhờ có các chất ấy cho nên ăn dưa hấu ta thấy mát ruột, và dù trong ba ngày tết
có ăn nhiều thịt mỡ thì đã có ốc-xa-lát tính chất “cầm” nên không sợ khó tiêu.
Đồng bào di
cư ăn Tết ở phương Nam, giải nồng bằng dưa hấu, ngắm bông mai vàng hẳn nhớ đến
lịch sử của quả ấy. Thì đây là sự tích “trái vỏ xanh ruột đỏ”:
Tục truyền
đời vua Hùng Nghi Vương nuôi được ngườỉ con trai lên 7, 8 tuổi. Thấy đứa trẻ mặt
mũi khôi ngô tuấn tú, nhà vua đặt tên là Mai Yến hiệu An Tiêm, cho học rồi lấy
cho một người vợ, sau lại phong quan tước. Từ khi làm quan, An Tiêm được bổng lộc
đầy nhà, ăn sung mặt sướng, nhưng thường nói với vợ và gia nhân rằng: “Những của
cải bổng lộc mà ta hưởng ngày nay tức là những công quả của ta ở đời trước cả;
vậy đời này ta cần phải tu nhân tích đức thì kiếp sau ta sẽ được hưởng nhiều sự
hay.”
Có người
thóc mách đến tai vua. Vua cho là An Tiêm vong ân bội nghĩa, giận mà nghĩ rằng:
“Đã thế thì đẩy nó ra ngoài bãi biển không ai lai vãng, thử xem nó còn được hưởng
công quả của đời trước nó không?” Thế rồi vua sai đem vợ chồng An Tiêm ra bãi
cát hoang vu ngoài cửa biển Nga Sơn, thuộc Thanh Hóa bây giờ; chỗ ấy quanh năm
chỉ có nước với trời, không một bóng người qua lại. Vua chỉ cấp cho lương thực
đủ bốn năm tháng, hễ hết là chết đói. Vợ An Tiêm sợ hãi, khóc lóc, nhưng An
Tiêm cười mà nói:
“Trời đã
sinh ra ta, tất trời sẽ nuôi ta, việc gì phải lo!”
An Tiêm ở
hoang đảo, hàng ngày thường đi vơ vẩn khắp mọi nơi, bỗng một hôm thấy đàn chim
nhạn ở phía Tây bay lại, đánh rơi mấy hột cây xuống đất. An Tiêm để ý xem xét
thấy ít lâu hạt ấy nẩy mầm mọc ra cây leo xanh tốt rồi khai hoa kết quả. An
Tiêm hái một trái bẻ ra ăn thử, thấy vị ngọt và mát, mừng rỡ mà rằng: “Thật là trời
cứu ta, nên cho ta thứ dưa này!”
Vì không rõ
quả dưa ấy tên là gì, An Tiêm bèn đặt tên là Tây Qua tức là dưa ở phương Tây do
đàn chim mang hạt giống lại. Từ đấy vợ chồng An Tiêm lấy hạt để giồng, trồng
thêm ra nhiều. Trồng được nhiều rồi, An Tiêm nghĩ cách viết chữ vào vỏ quả dưa
thả xuống biển, các thuyền đánh cá vớt được, ăn thấy ngon ngọt nên theo địa chỉ
kéo tới bãi cát Nga Sơn, mang gạo đổi lấy dưa về bán. Chẳng bao lâu giống dưa ấy
được trồng khắp nơi, và đổi tên là “dưa hấu” theo chữ là dưa hảo (tốt) vì ăn bổ,
ngon ngọt, lại mát ruột. Nhờ có trao đổi dưa lấy gạo mà vợ chồng An Tiêm không
lo chết đói nữa, trái lại, chàng đã thành một nhà buôn lớn.
Mấy năm
sau, vua Hùng Nghi Vương sực nhớ đến vợ chồng An Tiêm, sai người ra bãi biển
xem còn sống không, thì lạ thay, chẳng những An Tiêm chưa chết mà trái lại còn
buôn bán tấp nập với khách thương qua lại bằng nguồn lợi dưa hấu.
Vua lấy làm
khen ngợi và nói rằng: “An Tiêm nó nói phải, bổng lộc là của kiếp trước thực chẳng
sai.”
Vua bèn vời
vợ chồng An Tiêm về cho phục chức cũ trong Triều. Từ đấy, bãi biển Nga Sơn được
gọi là An Tiêm bãi và trái dưa nuôi sống được người gọi là dưa hấu. Uống nước
nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây, nên nhân ngày Tết, khi ta thưởng thức trái
dưa đỏ, nghe truyện xưa không phải là vô vị, và câu đối Tết của đất Bắc được một
bạn đọc Văn Hóa Nguyệt San đổi ra như sau đây có lẽ đúng với hương vị Tết miền
Nam:
“Thịt mỡ
mai vàng dưa hấu đỏ
Nêu cao
pháo nổ bánh chưng xanh.”
Duy Việt N.
C. HUÂN
Nhận xét
Đăng nhận xét