THUẦN PHONG MỸ TỤC GÁNH NẶNG MƠ HỒ VÀ CHUYỆN GÁC ĐỀN ĐẠO ĐỨC
THUẦN PHONG MỸ TỤC
GÁNH NẶNG MƠ HỒ
VÀ CHUYỆN GÁC ĐỀN ĐẠO ĐỨC
Một siêu thị bị phạt vì cho các nhân viên ăn mặc khêu gợi đứng quảng
cáo, một diễn viên diện bộ váy hở hang tham gia một sự kiện điện ảnh bị lên án,
một quảng cáo nước ngọt bị phạt, một số đầu sách bị cấm lưu hành, một quy định
về đặt tên doanh nghiệp gây kẹt... tất cả được giải thích bằng cụm từ “vi phạm
thuần phong mỹ tục”. Nhưng “thuần phong mỹ tục” là gì lại chưa hề có nội hàm rõ
ràng, trong khi quản lý văn hóa lại đang dựa trên sự thiếu rõ ràng này.
Xác định thế nào là “thuần phong mỹ tục”, rồi xác định “trái với thuần
phong mỹ tục” không hề đơn giản.
Trong Luật quảng cáo và văn bản hướng dẫn thi hành Luật quảng cáo không
ghi rõ nội hàm văn hóa này. Trong văn bản chi tiết nhất, tức thông tư
10/2014/TT-BVHTTDL hướng dẫn đặt tên doanh nghiệp phù hợp với truyền thống lịch
sử, văn hóa, đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc, cũng không một giải thích
nào về “thuần phong mỹ tục”.
Việc chưa thể xác định nội hàm rất có thể sẽ dẫn tới những suy diễn
mang tính chủ quan, thậm chí áp đặt hơn là có quy định hoặc thậm chí xử phạt rõ
ràng. Nhưng một khi đã đối diện với luật pháp, trong mọi trường hợp, người dân,
doanh nghiệp được quyền suy đoán vô tội chứ không phải là suy diễn có tội.
Do vậy, trong nhiều trường hợp, nếu hình ảnh hoặc từ ngữ có tính mơ hồ,
hay “gợi tả những điều xúc phạm”, cũng không đơn giản nếu muốn cấm cản hoặc
dùng luật để “khuôn” hành vi sai - đúng.
VẠCH
RA CÁC LỀ CHUẨN MỰC?
Những ví dụ này, nhìn rộng hơn nữa, không chỉ xoay quanh việc xử phạt
hay nhắc nhở một vụ việc mà nó liên quan tới cách thức quản lý văn hóa. Quả
đúng, phát ngôn “trái với thuần phong mỹ tục Việt Nam” không xuất hiện chỉ một
lần, trong trường hợp nhất định, mà nó đã thường được nhắc tới và thể hiện một
quan điểm, một tư tưởng quản lý.
Chúng ta sẽ cùng thảo luận tiếp về những khó khăn trong khi chưa có một
nội hàm rõ ràng mà cách quản lý dường như lại đang muốn “khuôn” hành vi văn hóa
vào các lề chuẩn mực này.
Phải nói ngay rằng nỗ lực áp đặt suy nghĩ của giới quản lý vào việc đưa
ra các quy định trong ứng xử văn hóa là mong muốn của nhiều chính quyền, mà
không chỉ hiện nay mới có.
Từ trong lịch sử, đã có hàng loạt quy ước, quy định nhằm “khuôn” con
người vào những khuôn mẫu, chuẩn mực nhất định, thậm chí ra luật. Chẳng hạn, sử
gia Tạ Chí Đại Trường (1) đã chỉ ra, từ thời Trần, nhà nước cấm các hình thức
hôn nhân anh em chồng ở một số tộc người thiểu số (khi một người đàn ông không
may chết, dòng tộc sẽ thảo luận và tìm ra một người anh/em có trách nhiệm lấy
người vợ góa và chăm sóc các con của anh/em mình) vì tục đó trái với quan điểm
thông thường, với thuần phong mỹ tục, luân thường (của người Kinh).
Và điều thú vị là luật cấm này hiện nay vẫn được thể hiện trong Luật
hôn nhân và gia đình mặc dù các khảo tả, phân tích dân tộc học về bản chất của
hình thức hôn nhân này vẫn rất hiếm hoi và hầu như ít ai biết trên thực tế thì
những người bản địa nghĩ gì về hình thức hôn nhân này, cảm nhận ra sao về tính
nhân văn/hoặc tính ép buộc của nó. Báo chí phần lớn chỉ mô tả phong tục này như
một hủ tục lạc hậu cưỡng ép người phụ nữ yếu thế, gây ra nhiều hệ lụy và xâm phạm
đạo đức chuẩn mực của xã hội (của người Kinh phổ biến).
Câu chuyện vừa dẫn ra cho thấy phong tục, luật tục trên đất nước này rất
khác nhau, với những quan điểm, niềm tin về tính nhân văn thậm chí là đối lập.
Các phong tục tập quán, truyền thống, chuẩn mực văn hóa của một quốc gia đa
vùng miền, đa tộc người, đa văn hóa chưa bao giờ là một khối thống nhất ngay tại
một thời điểm hoặc một không gian.
Có những ứng xử văn hóa được chấp nhận là quy tắc ở nền văn hóa này, hoặc
thậm chí ở một thời điểm này, của một nhóm sẽ khó lòng được chấp nhận ở nền văn
hóa khác. Thậm chí, mỗi nền văn hóa cũng luôn chứa đựng trong nó sự đa dạng, tới
mức nhóm “tinh hoa” và nhóm “bình dân”, các độ tuổi cũng sẽ có ứng xử khác
nhau.
Do vậy, “khuôn” tất cả vào một khái niệm “thuần phong mỹ tục” và đòi hỏi
xử phạt hoặc phê phán sao cho đúng sẽ là làm khó cho ngành văn hóa, sẽ đòi hỏi
người làm ngành này luôn phải suy diễn, hoặc cầm một sợi chỉ đỏ căng sẵn, ai vượt
ra ngoài những chuẩn mực, khuôn mẫu nhất định là sẽ bị phê, bắt lùi vào.
Trong khi đó, văn hóa không phải là những vạch ngăn, mà là biến đổi
liên tục, sẽ không có các mô thức ứng xử giống hệt nhau. Văn hóa, thực chất
chính là chấp nhận sự mâu thuẫn, đa dạng.
Thậm chí ngay cả cái chúng ta gọi là "chuẩn mực đạo đức" cũng
dần thay đổi. Song song với việc hình thành các chuẩn mực, cũng có sự hình
thành các vùng chuẩn lề và lệch chuẩn, để rồi sau này thiết lập
các chuẩn mực, ứng xử mới. Không có chuẩn mực nào là vĩnh viễn (2).
Không phải chỉ các lý luận phương Tây nói về điều này, tính “vượt gộp”
tiếp thu cái mới và nới rộng, thay đổi cái cũ đã được GS Phan Ngọc đưa ra thành
nguyên lý. Ông cũng cho rằng truyền thống văn hóa Việt Nam là truyền thống “vượt
gộp” (3). Nào mấy ai ở thời hiện tại còn cho rằng phụ nữ phải tam tòng? Trong
khi chỉ mới đầu thế kỷ trước, người phụ nữ còn được “tiết hạnh khả phong” cho đức
hạnh của mình. Những khẩu hiệu tự do ngày càng được phụ nữ hưởng ứng. Và thú vị
thay, những quảng cáo ủng hộ, tôn trọng sự tự do của nữ giới đang ngày càng ăn
khách.
ỨNG XỬ
THẾ NÀO TRONG BIẾN CHUYỂN XÃ HỘI?
Xã hội Việt Nam đang chuyển đổi, giới quản lý văn hóa đang phải đối mặt
với những sự biến đổi nhanh chóng và mạnh mẽ về chuẩn mực văn hóa. Có những yếu
tố mang tính lâu dài như khuôn mẫu gia đình, họ hàng, đạo đức cá nhân... vẫn là
mẫu số ít thay đổi, nhưng đồng thời, hàng loạt các quan hệ tương tác mới, các
hình thức biểu đạt văn hóa mới xuất hiện. Vậy ứng xử thế nào?
Việc ngành văn hóa cố gắng “khuôn” các hành vi con người theo các chuẩn
mực của thuần phong mỹ tục không chỉ thể hiện ý chí của riêng người quản lý, mà
cũng thể hiện, phản ánh mong muốn (và kéo theo đó là tranh cãi) trong xã hội về
việc duy trì các nề nếp được coi là chuẩn mực.
Những người làm quản lý văn hóa, cũng như tâm lý xã hội, đang ở trong một
thế mâu thuẫn: giữa giữ chuẩn và mở chuẩn, giữa hồ hởi với cái mới và lo sợ mất
cái cũ. Nhưng cách tốt nhất để bắt đầu, để có cách thức ứng xử với những biểu
hiện đa dạng và mới mẻ có lẽ là tìm cách nghiên cứu, hiểu và tôn trọng quy luật
biến đổi, đa dạng ấy.
Một phần của việc đó, là đã đến lúc phải bắt đầu nghiêm túc thảo luận về
hàm nghĩa của cụm từ “thuần phong mỹ tục” trong các văn bản luật pháp, hành
chính. Nếu coi đó là một nội hàm trong các văn bản pháp luật thì hiển nhiên phải
xác định rất tường minh, để tránh rắc rối cho chính doanh nghiệp, người dân, đồng
thời tránh khó xử cho các cơ quan thừa hành. Còn nếu nó vẫn tiếp tục mơ hồ, có
thể sẽ được suy diễn điều chỉnh, khi thì quá rộng rãi, khi thì bóp quá chặt.
Nếu coi đó là nội hàm thuộc về chuẩn mực xã hội, hãy để nó được công
chúng điều chỉnh bằng chính các chuẩn mực xã hội. Giả sử, doanh nghiệp hoặc bất
kỳ ai đó có hành động tồi, vô văn hóa, sẽ hứng chịu sự phản ứng dữ dội của công
luận. Hành vi đó xứng đáng chịu sức ép công luận chứ không nên bị trói bởi sợi
dây thừng của luật pháp.
Về lâu dài, nếu vẫn tùy biến sử dụng khái niệm này như một diễn ngôn
thường xuyên, cũng mang tính nước đôi (khi rộng, khi chặt) thì không khó khăn
gì nhận ra và thấy trước là rồi nó cũng sẽ vấp phải cách ứng xử văn hóa nước
đôi và linh hoạt như nước của công luận. Mà cái đó thì nào ai ngăn được?
Tốt nhất là quản lý bằng luật, với một cách diễn giải rõ ràng, sáng tỏ,
không thể suy diễn. Trong đó, văn hóa và quyền biểu đạt một cách đa dạng phải
được tôn trọng. Và quản lý văn hóa phức tạp và khó khăn hơn là ngồi vạch ra các
lề chuẩn mực, cũng như nỗ lực giữ hành vi văn hóa chạy trên một đường ray là vô
cùng thách thức. Gác đền tư tưởng, đạo đức chưa bao giờ dễ dàng trong bối cảnh
chuyển đổi.
************
Một truyền thống nước đôi lợi hại
Với câu chuyện gần nhất về một văn bản của ngành văn hóa nêu rõ quảng
cáo của một hãng nước ngọt đã vi phạm thuần phong mỹ tục, đi kèm giải thích
“giả sử nếu người ta thêm dấu, thêm mũ vào cho từ đó...” sẽ “có rất nhiều vấn
đề”, ta thấy ở đây một tình thế lưỡng nan: không giải thích thì sẽ không làm
rõ được “thế nào là vi phạm thuần phong mỹ tục” trong quảng cáo đó (và gây cười),
mà giải thích như trên thì lại càng rơi vào một ma trận ngôn ngữ của nói lái
gây cười.
Thử đọc một trong số những truyện cười kinh điển của người Việt:
“Bà chúa có nhan sắc mà tính kiêu ngạo, đi ra chơi phố phường thấy ai
trái ý là sai lính bắt đánh liền. Trạng Quỳnh lững thững đi chơi, gặp kiệu
chúa. Gần đấy có cái ao bèo. Quỳnh vội vàng chạy xuống cầu ao đứng đá nước
chơi. Chúa biết Quỳnh, thấy chơi lẩn thẩn như thế mới hỏi:
- Ông làm gì đó?
Quỳnh ngẩng lên thưa:
- Tôi ở nhà buồn quá, ra ao đá bèo chơi!
Chúa đỏ mặt tía tai, bỏ đi”.
Trong trường hợp này, cả hai bên (và người đọc chúng ta ngày nay) đều
hiểu đó là một hàm ý đá xéo, chửi xéo bà chúa, nhưng bà chúa lại trở thành
người ở thế yếu trong lập luận, phải im lặng bỏ đi, bởi nếu hô lính trói bắt
phạt trạng Quỳnh thì bà sẽ rơi vào tình huống bị chê cười vì nghĩ bậy. Trên
thực tế trạng Quỳnh chưa hề nói từ nào bậy bạ cả.
Những cách nói ẩn ý như thế này vốn là một kỹ năng được phát triển
cao độ ở người Việt lâu nay, từ Bắc chí Nam, “người Việt Nam vẫn thường sử dụng
ngôn từ có tính mập mờ, đầy lời ám chỉ và nghĩa ngầm ẩn”, đồng thời “coi trọng
tính mập mờ, coi đó như là giá trị thẩm mỹ và giá trị xã hội”, như GS Hồ Tài
Huệ Tâm (4) và Neil Jamieson (5) nhận xét.
Những trận cười giễu ở cả không gian thực hay không gian mạng xã hội
với những hashtag không dấu, cách nói lái, nói lấp lửng với nhiều kiểu đảo
ngược trật tự từ rất phong phú, đa dạng hiện nay cũng chính là lối thể hiện
cho một truyền thống, một lối ứng xử nước đôi linh hoạt. Lối ứng xử ấy có thể
chỉ đơn giản là cười vui, nhưng đồng thời trong nhiều trường hợp lại có thể
trở thành một vũ khí của những người yếu thế, một ngôn ngữ của đời sống chính
trị thường ngày (6), bình dân.
NGUYỄN THU QUỲNH
|
Chú thích và tham khảo:
[1] Tạ
Chí Đại Trường, Chuyện phiếm sử học, NXB Tri thức, 2016, tr 39.
[2] Social
Norms https://plato.stanford.edu/entries/social-norms/#EvolMode
[3]
Phan Ngọc, Bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB Thông tin, 1998.
[4] Tai,
Hue Tam Ho, The Country of Memory: Remaking the Past in Late Socialist Vietnam,
University of California Press, 2001. P 1 – 15.
[5] Neil
Jamieson, Một thế giới như nước: Bối cảnh và quá trình trong văn hóa Việt Nam,
in trong: Lương Văn Hy chủ biên, Hiện đại và động thái của truyền thống ở Việt
Nam: Những cách tiếp cận nhân học, NXB ĐHQG TP HCM, 2010. Tr 463-499.
[6] Các
nhà nghiên cứu như Benedict Kerkvliet, Jame Scott thảo luận về “chính trị thường
ngày” (Everyday Politics) - nghiên cứu các tư tưởng, hành vi và không gian
chính trị thường ngày của người dân, hiểu được các hình thức phản ứng của người
dân để từ đó hiểu được tác động của nó tới hệ thống chính trị rộng lớn hơn.
Kerkvliet,
Benedict J. Tria, The Power of Everyday Politics: How Vietnamese Peasants
Transformed National Policy, Cornell University Press, 2005.
Jame
C Scott, Weapons of the weak: Everyday Forms Of Resistance, Yale university,
New Haven and London, 1985.
Nhận xét
Đăng nhận xét