11. LUẬT NGŨ HÀNH trong LỘC ĐỈNH KÝ

11.
LUẬT NGŨ HÀNH
trong LỘC ĐỈNH KÝ

Trước hết xin thử khảo sát sơ qua thuyết Ngũ Hành. Một cấu trúc về tương quan nhân vật gần như ắt có và đủ trong các truyện Kim Dung [5]. Tóm tắt, Ngũ Hành gồm 5 yếu tố: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, được biểu tượng bằng 5 hướng Tây, Ðông, Bắc, Nam, Trung – tương đương với 5 màu: Trắng (bạch), Xanh (thanh), Ðen (hắc), Ðỏ (hồng), Vàng (hoàng). Mỗi người thường mang một mạng. Mạng này khắc (trị) được mạng kia, và tạo thành một vòng tròn kín. Thí dụ Chu Chỉ Nhược mạng Thủy, Trương Vô Kỵ mạng Hỏa. Thủy khắc Hỏa. Chu có thể khắc phục được Trương nhờ ở mạng Thủy hơn là tài năng. Năm yếu tố này cũng tạo nên một vòng nữa chỉ mạng này hỗ trợ (giúp) cho mạng kia. Thí dụ: Hoàng Dung (mạng Mộc) và Quách Tỉnh (mạng Hỏa). Mộc sinh (trợ) Hỏa. Hoàng Dung giúp Quách Tỉnh rất nhiều trong việc học tập võ nghệ.

Vậy thử xem qua vài nhân vật trong Lộc Ðỉnh Ký và mạng ngũ hành của họ. Trước hết, Vi Tiểu Bảo mạng gì? Mạng Thổ. Bởi Vi Tiểu Bảo người gốc Dương Châu ở miền Trung (mạng Thổ) nước Tàu. Ta có thể kiểm chứng mạng Thổ của Vi Tiểu Bảo rất dễ. Sự nghiệp của Vi bắt đầu lên khi Vi dùng mưu hạ cấp thảy bột vôi vào mắt của tướng Ngao Bái, rồi đâm một nhát dao và bắt sống được Ngao. Sau đó Vi theo lệnh ngầm ném đá dấu tay của vua Khang Hy đi vào lao xá đánh thuốc rồi giết Ngao Bái. Ngao Bái một tướng với võ công vô địch của Thanh triều sao lại bị một đứa trẻ con không biết võ hạ sát dễ dàng như vậy? Chỉ vì mạng Thổ của Vi Tiểu Bảo khắc mạng Thủy (màu Ðen, hướng Bắc) của Ngao Bái. Kim Dung nói rõ Ngao Bái mạng Thủy cũng giống y như mạng Thủy của Chu Chỉ Nhược trong Cô Gái Ðồ Long. Ðó là màu “đen xì” của con dao trủy thủ rất bén – chém đá như chém bùn - của Ngao Bái. Vi Tiểu Bảo tìm được con dao này khi kiểm kê tài sản Ngao Bái, rồi chôm con dao đó luôn. Ngoài ra họ Ngao cũng ám chỉ một loài động vật sống dưới nước, mạng Thủy. Y hệt bảo đao Ðồ Long Chu Chỉ Nhược chôm được từ Tạ Tốn cũng màu “đen xì”, và Chỉ Nhược là con của một tướng lãnh phục Hán chuyên sống trên sông. Ngao Bái mang mạng Thủy như Chu Chỉ Nhược.

Vua Khang Hy và công chúa Kiến Ninh đều những người mang mạng Mộc (phía Ðông màu Xanh). Tại sao? Tại vì họ người Mãn Thanh. Thanh tức màu xanh. Mãn Thanh vị trí nằm ở ÐÔNG Bắc Trung Hoa. Mãn Thanh khắc phục và chiếm được Trung quốc (Trung= mạng Thổ). Mộc khắc Thổ. Khang Hy (mạng Mộc) nếu đấu võ với Vi Tiểu Bảo (Thổ) luôn luôn thắng hạ được Vi Tiểu Bảo. Kiến Ninh cũng vậy. Cũng hạ Vi Tiểu Bảo dễ dàng – ngay cả trong chuyện chăn gối phòng the, với chút ít tính sa-điết khổ dâm.:cryss:

Hai người vợ khác của Vi Tiểu Bảo: Phương Di và Mộc Kiếm Bình (họ Mộc) cũng đều mạng Mộc. Riêng Phương Di mang tên Di gợi lên từ lối gọi Bắc Dịch, Nam Man, Tây Nhung và Ðông Di của người Tàu từ thời Hán thời Ðường. Phương Di có thanh âm như Ðông Di, chỉ phương Ðông. Ðông tức mạng Mộc. Phương Di cũng xuất thân từ phe phản Thanh của Mộc Vương, mạng Mộc. Trong rất nhiều trường hợp, Vi Tiểu Bảo khi gặp người phụ nữ đẹp đều bị . . . thôi miên tức bị khắc phục trước sắc đẹp của họ. Vi chính mạng Thổ nên ưa bị khắc phục bởi các phụ nữ đẹp thuộc mạng Mộc. Bất kể già trẻ lớn bé.

Tô Thuyên, tức phu nhân hờ - không chăn gối - của giáo chủ Thần Long giáo Hồng An Thông cũng vậy. Thuyên mang nghĩa một loài cỏ thơm, mạng Mộc. Tô Thuyên đáng tuổi như má của Tiểu Bảo và Kim Dung đã khơi dậy mặc cảm Oedipus trong tình vợ chồng của Bảo và Thuyên. Cũng như đã mô tả Vi Tiểu Bảo mê mệt bà Trần Viên Viên, má vợ của y về sau. 

Thế nhưng trong cái khung đối chiếu của Thần Long giáo, Vi Tiểu Bảo mang toạ độ gì? Vi Tiểu Bảo sẽ theo sắp đặt của Châu Dịch tức Kinh Dịch đổi ra mạng gì khi đứng trong hàng ngũ của Thần Long giáo? Mạng Kim, màu trắng, phương Tây. Bởi Hồng giáo chủ lúc kết nạp y vào bang giáo, vì có chỗ trống do sự qua đời của 1 trong 5 phó chủ tịch biểu hiệu cho ngũ hành, đã bổ nhiệm y làm Bạch Long Sứ. Bạch tức màu trắng, mạng Kim. Kim khắc được Mộc. Vi Tiểu Bảo (mạng Kim) làm cho Tô Thuyên (mạng Mộc) mang bầu rồi trở thành vợ của y. Trong lúc Tô Thuyên bật mí chuyện mang bầu với y, giáo chủ Hồng An Thông nổi giận giao đấu với tất cả các phó thủ lãnh kia. Hồng giáo chủ giết được các Long Sứ khác chỉ trừ Vi Tiểu Bảo bởi Vi Tiểu Bảo mạng Kim có thể khắc được mạng Mộc của Hồng An Thông. Chứ Thông mang nghĩa cây Thông (Mộc) không thể hạ được Vi Tiểu Bảo, mang mạng Kim trong vùng trời biển của Thần Long giáo. Hồng giáo chủ sau khi chiến đấu với các phó chủ tịch kia, đã bị thương, rượt đuổi Vi Tiểu Bảo không được - bởi Vi đã học được ngón nghề chạy trốn của Cửu Nạn ni cô - mệt quá lăn đùng ra chết. Ta để ý Kim Dung không cho vợ hờ Tô Thuyên hay Vi Tiểu Bảo giết Hồng giáo chủ bởi cả Tô Thuyên và Vi Tiểu Bảo đều là đệ tử của Hồng An Thông. Tô Thuyên mặc dù cũng đã là một cao thủ nhưng vẫn học được ít nhiều ngón nghề của Hồng An Thông. Vi Tiểu Bảo ngày trước được Hồng An Thông chỉ dạy một ngón võ nhảy lên vai của đối phương – nên một ngày là Thầy, muôn đời vẫn Thầy. Vi Tiểu Bảo dù thế ngũ hành có trên rơ Hồng giáo chủ cũng không thể giết Thầy được. 

Kinh Dịch cũng cho ta thấy khi vào Thiên Ðịa Hội Vi Tiểu Bảo chuyển sang mạng Mộc – màu Xanh, phương Ðông. Trần Cận Nam, lãnh tụ Thiên Ðịa Hội phong y làm 1 trong 5 phó lãnh tụ (cũng biểu tượng cho ngũ hành) với tước hiệu Hương Chủ của Thanh Mộc Ðường. Thanh tức màu Xanh, Mộc tức cây cối, màu xanh và mạng Mộc. Trần Cận Nam, trong tên có Nam, ám chỉ người phía Nam, mạng Hỏa, màu Ðỏ. Trong Ngũ Hành, Mộc sinh Hỏa. Mộc giúp đỡ cho Hỏa. Vi Tiểu Bảo đã giúp Trần Cận Nam rất nhiều trong công cuộc phản Thanh phục Minh của Thiên Ðịa Hội do Trần Cận Nam tức Trần Vĩnh Hoa lãnh đạo. Và sau cùng khi Trần Cận Nam bị Trịnh Khắc Sảng đâm lén chết Vi vẫn nghe lời trối trăn của Cận Nam không giết Khắc Sảng để trả thù. Mặc dù y có rất nhiều phương tiện trong tay để làm việc đó.

Vi Tiểu Bảo trong phương thế mạng Thổ đã vận hành ra sao đối nữ hoàng Sophia (Tô Phi Á) của nước Ra-Sát (Russia) tức Nga? Ðầu tiên y gặp Sophia ở phía Bắc ngay tại biên giới 3 nước Tàu, Nga và Mãn Châu, lúc y đi tìm Lộc Ðỉnh Sơn. Sophia lúc đó trong thế tương đối mang mạng Thủy, bởi đang cư ngụ phía Bắc, và Vi từ phía Nam, mạng Hỏa. “Thủy- Sophia” chinh phục được “Hỏa- Tiểu Bảo” nhờ ở thân hình và nhan sắc diễm kiều, và rơ ngũ hành. Sau đó, Sophia đem Tiểu Bảo về Mát-Cơ-Va chơi. Vừa trở lại kinh thành, Sophia hay tin vua cha qua đời. Tiếp theo đó, một cuộc chính biến và Sophia bị giam lỏng. Vi Tiểu Bảo tìm cách cứu Sophia và thành công trong việc giúp Sophia nắm lại được chính quyền Nga – trong vai trò hoàng hậu nhiếp chính. Mạng Thổ chính tông của Vi (thể hiện từ việc Tiểu Bảo là người miền Trung và cũng Trung Hoa) đã giúp được Sophia, người Tây Phương, mạng Kim. Thổ sinh Kim. Thổ hỗ trợ Kim.

Trong những người tình và vợ của Vi Tiểu Bảo, Kim Dung có vẻ chỉ chấm Song Nhi người vợ được Vi Tiểu Bảo yêu mến nhất. Song Nhi chính là người hộ vệ Vi Tiểu Bảo – che chở, bảo vệ và cứu mạng y trong những cơn nguy khốn. Xuất thân một a-hoàn của gia đình họ Trang có tinh thần phục quốc, Song Nhi được Trang gia chủ . . . tặng cho Vi Tiểu Bảo để đáp ơn đã giết kẻ tử thù Ngao Bái, và sau này gian quan Ngô Chí Vinh. Song Nhi mạng gì? Mạng Hỏa, phía Nam. Bởi Trang chủ người gốc ở trấn Nam Tầm, phủ Hồ Châu. Song Nhi mạng Hỏa giúp Vi Tiểu Bảo mạng Thổ. Giúp trong nghĩa nâng khăn sửa túi đến trọn đời. Hỏa sinh Thổ. Ðó là một luật của Ngũ Hành. Bằng chứng hiển nhiên nhất khi Vi Tiểu Bảo làm nguyên soái trong chiến dịch Tây chinh đi đánh với Nga về sau, Vi Tiểu Bảo chỉ chọn có Song Nhi cho đi theo, trong sự bất mãn của sáu người vợ kia.

Trong việc giải quyết mâu thuẫn gây nên bởi thuyết Ngũ hành, Kim Dung nhất quyết không để lộ một chút sơ sót. Mâu thuẫn đó dễ xảy ra bởi truyện Tàu thường có rất nhiều nhân vật, và nhiều màn tình huống gay cấn khác nhau. Số nhân vật trong tiểu thuyết hình như mang tỉ lệ thuận với dân số của quốc gia. Dân số Việt Nam ít hơn dân Tàu nên tiểu thuyết Việt Nam có ít nhân vật hơn tiểu thuyết Tàu? Ðối với một tiểu thuyết kiếm hiệp có nhiều nhân vật chiến đấu lẫn nhau mà lại dựa trên Ngũ Hành sinh khắc, người viết phải rất thận trọng. Bởi A mang mạng X thắng B mang mạng Y thì được, nếu mạng X khắc mạng Y. Nhưng cũng đem A đó cho đánh với C mang mạng Z, người viết lập tức có một mâu thuẫn cần phải giải quyết. Bởi mỗi một mạng chỉ khắc (trị được) một mạng khác nữa mà thôi. A mạng X đã khắc B mạng Y rồi nên khó lòng khắc C mạng Z. 

Trong tất cả truyện của Kim Dung, mâu thuẫn Ngũ Hành đều được giải quyết ổn thoả. Trong “Võ lâm Ngũ Bá”, Vương Trùng Dương biệt hiệu Trung Thần Thông, người miền Trung ở gần Cổ Mộ (dưới đất) mạng Thổ. Dưới cơ mạng Mộc của Hoàng Dược Sư, ưa mặc áo xanh sống gần gũi những cây đào (mạng Mộc). Và mạng Thổ của Trung Thần Thông không thể trị được Tây Ðộc Âu Dương Phong, mạng Kim, áo màu trắng. Ðể hoá giải, Kim Dung cho Trung Thần Thông phải mượn ngón Nhất Dương Chỉ của Ðoàn Nam Ðế - phía Nam mạng Hỏa, mới thọc được một cú vào mặt Tây Ðộc cho y tởn tới già! Hỏa mới khắc được Kim. Ðông Tà nếu đánh nhau gay gắt có thể hạ được Vương Trùng Dương. Nhưng Kim Dung cho Vương bệnh chết sớm và lúc sống Ðông Tà vẫn mến phục Vương bởi Vương cũng giỏi chữ nghĩa bằng hoặc hơn Ðông Tà. Tuy vậy để thế Ngũ Hành vẫn được cân bằng, sau khi Vương chết đi, Kim Dung nâng cao vai trò Lão Ngoan Ðồng Châu Bá Thông, cũng mạng Thổ. Mộc khắc Thổ như thường: Ðông Tà mạng Mộc dễ dàng bắt được Châu Bá Thông, mạng Thổ và giam trên đảo Ðào Hoa suốt 20 năm. Trên đảo Ðào Hoa 20 năm, kinh dịch cho Châu Bá Thông biến dần sang mạng Mộc như ai - với cái tên sẵn có Thông, thuộc loài cây. Ngoài ra Kim Dung cho Thông phát minh ra một loại võ gọi Song Thủ Hỗ Bác. Mỗi tay đánh một kiểu quyền khác nhau. Hai tay như hai người. Ðể ý trong cụm từ ‘song thủ hỗ bác’ có từ ‘Hỗ’ có phát âm gần giống với ‘Hổ’ mang nghĩa ‘con cọp’ tức chúa sơn lâm. Cọp sống ở đâu? Ở trong rừng, tiếng Hán là ‘Lâm’. Rừng có nhiều Cây, mạng Mộc. Mộc của Thông dữ hơn Mộc của cây đào và cành hoa của Hoàng Dược Sư. Nên sau cùng Thông đánh được Hoàng Dược Sư và tự giải thoát cho mình. Ðánh lại được chứ không khắc được, bởi Thông mới chuyển sang mạng Mộc như Ðông Tà. Tương tự Tây Ðộc mạng Kim thật ra trên cơ Ðông Tà. Kim Dung cho hai người đó ít đánh nhau gay gắt và lại gán cho họ một thứ tình tương kính đồng nghiệp, giữa kẻ cướp với bà lão ăn trộm, của những người cùng chung nghề nghiệp với nhau. Nghề nghiệp của Ðông Tà và Tây Ðộc là lo đi chôm Cửu Âm Chân Kinh!

Trong Lộc Ðỉnh Ký, khó nhất của Ngũ Hành là cái màn giáo chủ Hồng An Thông phải thanh toán năm vị phó chủ tịch kia, mang 5 mạng khác nhau của Ngũ Hành. Ðể cho thật chắc ăn, Kim Dung cho Hồng An Thông mang thật nhiều mạng. Cũng như cho Vi Tiểu Bảo chính mạng Thổ nhưng vào Thần Long giáo, châu dịch chuyển sang mạng Kim với chức Bạch Long sứ - màu trắng. Kim Dung cho Thông – chính mạng Mộc - họ Hồng để ám chỉ mạng Hỏa xơ-cua của Thông. Rồi còn cho Thông thêm một mạng phụ nữa, mạng Thủy với tước hiệu giáo chủ Thần LONG giáo. Long là rồng - sống ở dưới nước. Thần Long giáo cũng có sào huyệt trên đảo giữa vùng Nước biển mênh mông. Vi Tiểu Bảo với chức Bạch Long sứ (mạng Kim trong Thần Long giáo) không chết, bởi Bảo mạng Kim khắc được Thông mạng Mộc. Chứ Thông không thể giết được Bảo. Cái chết của 4 vị Long Sứ kia mỗi người một kiểu nhưng đều phù hợp lô-gích của Ngũ Hành. Ðối với Hoàng Long Sứ (hoàng = màu vàng) mạng Thổ, Kim Dung cho Thông, mạng Mộc chỉ cần chọi vào Hoàng một cục đá. Hoàng chết ngay, Mộc trị Thổ. Ðối với Hắc Long Sứ mạng Thủy thì sao? Hắc màu đen chỉ phương Bắc mạng Thủy. Nước giúp cây sinh sống. Thủy sinh Mộc chứ không khắc Mộc. Kim Dung khôn khéo né tránh việc mô tả Hắc Long Sứ bị chết như thế nào và chỉ mượn lời Thông nói lớn cho Hồng phu nhân nghe, đại khái: ‘Hắc Long Sứ suốt đời theo hầu hạ giúp đỡ ta, về già tự nhiên nó đâm lòng phản, và nó đã chết rồi’. Ta để ý Kim Dung muốn cho chắc ăn thêm vào “Hắc long sứ về già đâm lòng phản” tức Hắc Long sứ hoặc bởi già có thay đổi, châu dịch đã chuyển y sang mạng khác (để phản lại Thông), hoặc mạng xơ-cua Thủy của Thần Long giáo chủ đã làm cho y (cũng mạng Thủy) mệt rồi chết. Còn lại Thanh Long Sứ, màu xanh, mạng Mộc như Thông và Xích Long Sứ, màu đỏ, mạng Hỏa. Ta để ý Kim Dung tránh dùng Hồng Long Sứ mà chỉ dùng Xích Long sứ, cùng chỉ màu đỏ, để tránh trùng hợp với Hồng giáo chủ. Cái chết của hai vị phó thủ lãnh này cũng sẽ đưa đến cái chết của Hồng An Thông. Bởi mấy mạng này không ai khắc ai. Thanh Long sứ bị Thông đá gảy xương sườn nhưng hai tay ôm chặt lấy chân Thông để cho Xích Long sứ chém vào vai Thông một đao. Thanh Long sứ sau đó còn lượm được phán quan bút đâm vào sườn của Thông. Mộc trả đũa với Mộc. Rồi hai vị phó đó chết vì bị thương và kiệt sức. Thông sau đó cũng chết vì bị thương và đuối sức bởi rượt khắc tinh của y là Bạch Long Sứ Vi Tiểu Bảo, rượt mãi không được.

Viết tiểu thuyết kiếm hiệp theo sát với Ngũ Hành thật ra rất khó. Hình như chưa có tiểu thuyết gia Trung quốc nào lại khoái Ngũ Hành dữ dội như Kim Dung. Và Kim Dung đã chứng tỏ ông không để một sơ hở nào trong việc áp dụng tương quan sinh khắc của ngũ hành vào các nhân vật. 

Người ta để ý Kim Dung qua Lộc Ðỉnh Ký đã tiếp tục khai triển những đề mục cũ và đồng thời đưa ra thêm các đề mục mới như sau:

Ðề mục một vai chính rất mù mờ về võ nghệ. Nối tiếp từ Ðoàn Dự trong Lục Mạch Thần Kiếm và Thiên Long Bát Bộ. Tuy nhiên Ðoàn Dự còn biết chữ nghĩa và biết được một hai ngón võ nghề như Lục Mạch Thần Kiếm và Lăng Ba Vi Bộ. Tuy nhiên võ của Ðoàn Dự khổ nỗi khi đánh ra được, khi không. Vi Tiểu Bảo mù chữ từ đầu đến đuôi mặc dù làm quan rất lớn. Võ nghệ chỉ học được một hai chiêu nhưng không đủ tự bảo vệ mình thì còn nói chi đến chỗ cứu người khác. Kim Dung đã tạo ra một đường hướng mới cho truyện võ hiệp: Nhân vật chính không cần giỏi võ nghệ, mà chỉ cần thông thuộc võ mồm.
• 
Ðề mục liên quan đến kỹ viện, tức nơi lui tới của giới làng chơi, đã được giới thiệu qua Tiếu Ngạo Giang Hồ. Ở đó Kim Dung dùng kỹ thuật của ngành hài kịch, cho len vào một tình huống tương phản, mâu thuẫn: Ðưa cao đồ của một chính phái Lệnh Hồ Xung vào kỹ viện trốn tránh với một ni cô ở tuổi xuân thì.. Trong Lộc Ðỉnh Ký, Kim Dung phát triển đề mục kỹ viện đến tột độ. Một ông quan lớn triều Thanh Vi Tiểu Bảo xuất thân là con một kỹ nữ làm việc tại kỹ viện Lệ Xuân ở Dương Châu. Vi sinh đẻ và lớn lên tại kỹ viện. Những lúc thối chí chốn quan trường, y ưa ôm mộng đem tiền kiếm được về mua kỹ viện Lệ Xuân và mở thêm ra vài kỹ viện hạng nhất nữa. Ðệ nhất mỹ nhân làm nghiêng thành đổ nước Trần Viên Viên cũng xuất thân từ một kỹ viện lớn ở Tô Châu. Ở tuổi trên dưới 40, Trần Viên Viên, sau này là nhạc mẫu của Vi, cũng còn đẹp để làm chàng thanh niên Vi Tiểu Bảo mê say ngây ngất. Tiếu lâm nhất Kim Dung viết ra nhiều đoạn cài xen kẻ sinh hoạt chính trị với sinh hoạt chốn kỹ viện với nhau. Trịnh Khắc Sảng và A Kha vì muốn lùng bắt Vi Tiểu Bảo mới cải trang làm hai người đàn ông đi tìm hoa tại kỹ viện Lệ Xuân. Tình cờ Vi Tiểu Bảo phát hiện ra được và tìm cách đánh thuốc mê hai người. Bởi lúc nào y cũng thấp thỏm lo sợ kẻ tình địch y Trịnh Khắc Sảng sẽ lựa chọn má y để vui vầy qua đêm. Như vậy y sẽ trở thành con hờ của Khắc Sảng thì quá khổ. Sau khi bất tỉnh vì thuốc mê, A-Kha bị tơi bời hoa lá với Vi Tiểu Bảo, để rồi sau cùng lấy y làm chồng như 6 người đẹp khác
• 
Tạo dựng kỹ viện song song với triều đình nhà Thanh, và vương điện của Phiên Vương Ngô Tam Quế, Kim Dung cho ta thấy nhiều điểm thật hay và ngộ, nhưng không kém chua chát của sự thật cuộc đời. Cả kỹ viện lẫn triều đình, nơi hành sự của chính trị trung ương, đều là chốn của những con người . . . giả [10]. Xưa nay người ta thường so sánh chính trường với sân khấu màn nhung, nhưng Kim Dung có lẽ nhà văn đầu tiên đem so sánh chính quyền với kỹ viện. Ði sâu hơn nữa, Kim Dung cho thấy cái trường đào tạo nên chính trị gia ưu việt Vi Tiểu Bảo không đâu khác hơn chính cái kỹ viện Lệ Xuân ở Dương Châu, nơi sinh trưởng của y. Giao tác giữa kỹ viện và chính trị cả nước còn được nhấn mạnh qua vai trò của kỹ nữ Trần Viên Viên, với sắc đẹp nghiêng thành đổ nước, đã làm điên đảo vua cuối nhà Minh, Lý Tự Thành, rồi Ngô Tam Quế, và bao nhiêu kiếm khách hiệp sĩ khác. Một người anh em kết nghĩa với Vi Tiểu Bảo là Hồ Dật Chi si mê bà Viên đến độ chỉ xin làm lao công tưới vườn nhà bà Viên để có thể ngày ngày nhìn ngắm bà trong lúc tưới cây!
• 
Tiểu tiết “cắt đứt thằng nhỏ” thường gọi nôm na “thiến sống” cũng được Kim Dung phát huy tối đa. Trong “Tiếu Ngạo Giang Hồ”, Kim Dung nghĩ ra một thứ kiếm pháp mang tên Tịch Tà Kiếm Pháp chỉ dành đặc biệt cho người bán nam bán nữ mới tập được. Những người đó ngông cuồng . . . tự cắt mất “bảo bối” quý nhất của đàn ông để có thể luyện tập được món kiếm pháp cực kì lợi hại đó. Ðiều kiện cần và đủ để luyện tập Tịch Tà Kiếm pháp là người luyện phải tự . . . “thiến sống” hay chia lìa “thằng nhỏ” của mình. Tịch Tà Kiếm pháp đòi hỏi người xử dụng phải vừa có tay chân nhanh nhẹn và khéo léo như một phụ nữ, vừa có đầy nội lực hùng hậu của một người đàn ông. Và theo Kim Dung, chỉ có một cách nhanh nhất để hội đủ hai điều kiện tương phản đó: người luyện kiếm phải . . . chia tay với thằng nhỏ. Kiếm pháp này đã do một thái giám phát minh ra đầu tiên! Trong Lộc Ðỉnh Ký, Kim Dung chiếu sáng đời sống của các thái giám trong triều nhà Thanh. Nhất là tâm lý của các phụ nữ khi gần gũi thái giám. Họ không lo sợ gì hết. Từ công chúa cho đến các công nương kiếm khách xâm nhập hoàng thành từ phía bên ngoài. Họ coi thường thái giám qua nhận diện cách ăn mặc. Họ biết thái giám chẳng làm gì được họ bởi không có vũ khí “thằng nhỏ” đó. Thái giám hỏi họ làm vợ họ cứ nhận bừa. Nhưng tiếu lâm ở chỗ trong đó có một tay thái giám giả hiệu xuất thân từ kỹ viện là Vi Tiểu Bảo. Thế mới biết đi đêm có ngày gặp ma. Kim Dung còn cho biết thái giám bởi không còn gì hết nên rất tham tiền, tham vàng bạc của cải. Chính nhờ đó, một thái giám giả hiệu người Hán Vi Tiểu Bảo đã dễ dàng mua chuộc họ bằng tiền bạc chôm từ những nơi khác. 
• 
Trong “Tiếu Ngạo Giang Hồ” Kim Dung bắt đầu giới thiệu cá tính chợ trời của một kiếm khách vai chính Lệnh Hồ Xung. Ðây thật ra là một tuyệt chiêu mới về tiểu thuyết kiếm hiệp. Nó phá tung những huyền thoại cổ điển về những người võ hiệp, như kiểu Cam Tử Long – Lã Mai Nương, Càn Long du Giang Nam, Quách Tĩnh, Trương Vô Kỵ, v.v.Theo đó những vai chính thường là những người đôn hậu chất phác, đôi khi hơi . . . cù lần. Trung thực và tình nghĩa tới cùng. Lời nói nào cũng xuất phát ở tận đáy lòng. Lệnh Hồ Xung không hoàn toàn như vậy. Hồ Xung mồm mép và mưu lược hơn người tuy bản chất vẫn trung hậu và đầy tình nghĩa. Một týp tiến sĩ chợ trời của giới giang hồ. Sang “Lộc Ðỉnh Ký” Kim Dung mô tả Vi Tiểu Bảo – so với tiến sĩ chợ trời Lệnh Hồ Xung – như một người xứng đáng nhận giải Nobel về thành tích chợ trời của y. Từ xuất xứ không biết cha mình là ai, môi trường sống không học không hành, đánh bài gian và thảy xúc xắc, cho đến móc túi và tham nhũng . Nhưng hơn cả Lệnh Hồ Xung, Vi Tiểu Bảo được tiếp cận và giao tác với những vấn đề to lớn hơn: những người đàn bà đẹp (thường lớn tuổi hơn y), tiền tài, danh vọng, việc mất nước về tay nhà Thanh, gián điệp muôn trùng, chính trị và quyền bính. Những thử thách to tát đó thường dễ dàng làm hư thối con người. Nhưng Kim Dung cho thấy đối với một vua chợ trời kiểu Vi Tiểu Bảo, các khó khăn đầy mâu thuẫn đó đều được hoá giải như chơi. Như một cơn bài mà Vi thường vui vẻ đánh với thủ hạ.
• 
Kim Dung viết xong Lộc Ðỉnh Ký vào năm 1972. Lúc đó một nhận xét về đấm đá của người Tây phương chắc không có gì lạ. Kim Dung đưa ra nhận xét này trong đoạn quân Thanh đánh nhau với quân Nga, dưới quyền chỉ huy của nguyên soái Vi Tiểu Bảo. Những phim Hollywood trước thập niên 70, không bao giờ thấy các vai trò trong phim dùng chân đá nhau theo kiểu Karate, Taek Won Do, hay Kung Fu. Ðiển hình các phim như Shane (Alan Ladd, Van Heflin), Giant (Rock Hudson, James Dean) và hàng trăm phim khác, nhất là loại phim cao-bồi, người ta thấy những vai trong phim đánh nhau mệt nghỉ. Toàn đánh đấm bằng tay thôi. Những cú đá bắt đầu len vào phim Âu Mỹ có lẽ bắt đầu từ phim loạt TiVi The Avengers ở cuối thập niên 1960. Với những cú đá kiểu karate của nữ tài tử Diana Rigg. Sau đó người lăng xê các cú đá kiểu kung fu vào “văn hoá” phim ảnh rồi đời sống toàn cầu chính là Lý Tiểu Long tức Bruce Lee. Rồi đến phim loạt cho Tivi Kung Fu với tài tử David Carradine. Và bây giờ phim nào có đánh nhau đều có đấm và . . . đá. Kim Dung đưa ra quy ước bất thành văn này để đối chiếu với các quy ước trong giới kiếm hiệp giang hồ Trung Hoa. Ðó là đánh lén, thảy bột vôi vào mắt địch rồi lợi dụng cơ hội nhào tới đâm địch nhân. Núp dưới gầm bàn rồi dùng dao chém chân địch. Tất cả những ngón này Vi Tiểu bảo đều xử dụng rất thuần thục. Trong đoạn đầu mặc dù y dùng thủ đoạn hạ cấp để cứu Mao Thập Bát, nhưng Mao Thập Bát vẫn mắng chửi y và từ chối không nhận y làm đồ đệ. Ðến sau này khi phải cấp bách cứu mạng Trần Cận Nam, chủ tịch Thiên Ðịa Hội, một người tiếng tăm lừng lẫy trong chốn giang hồ, Vi tiểu Bảo lại dùng ngón “nghề của chàng” nữa. Sau đó y xấu hỗ dấu nhẹm với Trần cận Nam chuyện làm sai quy ước giang hồ của y.
• Một điểm tiếu lâm “không chịu được” nằm ngay trong tên họ của nhân vật chính, Vi Tiểu Bảo. Vi là “Nhỏ”, Tiểu cũng “Nhỏ”, và Bảo là cái gì “quý giá”, một thứ của gì quí quí. Vi Tiểu Bảo, tên một nhân vật phái nam, có thể dịch ra theo kiểu “thuần Nôm” là “của quí nho nhỏ “ hoặc “thằng nhỏ” . . . của đàn ông. Kim Dung xác nhận điểm này khi Vi Tiểu Bảo với tư cách nguyên soái, ký tên vào bản hoà ước hoạch định biên giới Nga-Trung. Vốn mù chữ và đến tên Bảo họ Vi y cũng không biết. Y chỉ biết có Tiểu tên đệm thôi. Nhưng biết cũng không rõ ràng. Viết đúng chữ Tiểu phải viết một gạch thẳng và hai gạch nhỏ ở hai bên. Thế bởi mù chữ y ký tên nguệch ngoạc nhưng cũng đúng thật tên của y, bằng lối tượng hình của chữ Hán, bằng một đường nét đậm thẳng đứng với hai vòng tròn hai bên! Hết ý kiến. Hoà ước này có thật và có chữ ký của nhiều quan lớn đôi bên. Nhưng có lẽ chữ ký của Vi Tiểu Bảo rất khó xem nên sử gia đã không để ý và lướt qua. Phải chăng đề tài chính của truyện Lộc Ðỉnh Ký cũng là một khảo luận nhỏ về tên của Vi Tiểu Bảo, về cái khổ và cái quý của con người. Về những người có của quí, và không có của quí.
• Thuyết Bất-nhị-nguyên của nhà Phật cũng được Vi Tiểu Bảo xử dụng khi y bốc thơm cao tăng Tây Tạng và cao thủ Mông Cổ để cầu xin tha mạng. Y nhắc lại trận đánh năm cũ của cao thủ Mông Cổ với “sư huynh” của y là phương trượng Thiếu Lâm. Thật ra trong trận đánh đó phương trượng Thiếu Lâm hạ cao thủ Mông Cổ dễ dàng. Nhưng Vi tâng bốc người Mông Cổ bằng cách nói dóc là y nhớ người Mông Cổ hạ phương trượng Thiếu Lâm. Sau đó y lâm râm khấn với phương trượng Thiếu Lâm rằng sở dĩ y nói dóc vì y tin rằng không tức sắc, sắc là không, thắng cũng như thua, thua như thắng, Thiếu Lâm thắng Mông Cổ không khác gì Thiếu Lâm thua Mông Cổ. Phải chăng Vi Tiểu Bảo trong một giây phút gần gũi với sự sống và cái chết, bất chợt đã tự giác ngộ?.

Ảnh hưởng và vinh danh

Trong sinh hoạt văn nghệ, nghệ thuật và văn hoá nói chung, người ta thường nghe nói nhà văn này hoặc nhà đạo diễn phim ảnh này chịu ảnh hưởng của nhà văn hay đạo diễn kia. Nhiều vị, nhất là những nhà đạo diễn một khi họ đã nổi tiếng, đều tự nhiên tuyên bố danh tánh của các vị tiền bối đã ảnh hưởng đến tác phẩm của họ. Thí dụ như đạo diễn Quentin Tarantino của các phim nổi tiếng Reservoir Dogs, Pulp Fiction, thường ca tụng John Woo của Once a Thief (Chou Yun Fat, Leslie Cheung), Face/Off (John Travolta) và Broken Arrow (John Travolta). Brian de Palma, đạo diễn những phim như Dressed to Kill với Angie Dickinson; Mission: Impossible với Tom Cruise, thường được xem có thể trở thành một Hitchcock thứ hai. Thông thường nhà làm phim thường cho xen vào phim mới của mình một cái “xen” hầu như “bắt chước” y hệt cái xen hay ho của vị tiền bối gây ảnh hưởng đó. Họ gọi công việc đó, “vinh danh” tiền bối (pay tribute to). Và một khi một đạo diễn hoặc tác giả có nhiều người vinh danh - những hoạt cảnh tuyệt chiêu đi luôn vào văn hoá của bộ môn nghệ thuật đó. Nhiều khi đi tuốt đến dân gian. Thí dụ những từ như Tú Bà, Sở Khanh phát xuất từ Kiều bây giờ trở thành những danh từ chung. I couldn’t give a damn (đại khái: Tôi chẳng màng nữa) của “Cuốn Theo Chiều Gió” do Rhett Butler (Clark Gable) thốt ra vào lúc cuối phim trở thành câu nói thông thường của tiếng Mỹ. 

Ðối với vua phim kinh dị Alfred Hitchcock, người ta có thể nhận ngay 3 xen nổi tiếng nhất, dễ bị “cóp” nhất: Xen 1: Marion Crane (Janet Leigh) đang tắm vòi sen trong phim Psycho, bị Norman Bates (Anthony Perkins) xem trộm rồi một lão bà nhảy vào đâm chết. Xen 2: Roger Thornhill (Cary Grant) trong phim North by NorthWest – sau khi bị bắt tra tấn tại một biệt thự nọ, trốn về đi báo với cảnh sát. Lúc cảnh sát dẫn y trở lại biệt thự đó, không thấy những người gian ác đánh đập y đâu hết, và trang trí bày biện đồ vật trong phòng khách tra tấn y cũng hoàn toàn thay đổi – làm cho mọi người bị bẽ mặt. Xen 3: Cũng trong phim North by Northwest, cảnh Cary Grant trên một ngọn đồi trơ trọi phải chạy trối chết vì bị một chiếc máy bay nhỏ lờn vờn rượt bắn.

Xen số 1, một phụ nữ đang tắm vòi sen bị hung thủ lẻn vào phòng tắm rồi tấn công bằng dao hiện đã trở thành một kỹ thuật tiêu chuẩn của phim kinh dị. Có đến hàng trăm phim đâm ra bắt chước xen tắm này. Xen thứ 2 và thứ 3 cũng được phim James Bond chôm nhiều lần. Moonraker dùng xen thứ 2, From Russia with Love xử dụng xen thứ 3.

Thế Kim Dung có sử dụng hoặc vinh danh Hitchcock hay không? Thưa có. 
- Trực tiếp: Trong “Tiếu Ngạo Giang Hồ” lúc Lâm Bình Chi đâm chết con trai Dư Thanh Hải tại một quán nhỏ bên đường. Sau đó Lâm Bình Chi về nhà kêu Cha là trưởng của Phước Oai tiêu cục dẫn một đoàn tùy tùng trở lại quán đó để dò la. Tới nơi không thấy chủ quán và người hầu bàn xinh đẹp (tức Nhạc Linh San) đâu hết. Bàn ghế bày biện của quán biến đâu mất, chỉ thấy đó là một nhà bỏ hoang. Xác chết của con Dư Thanh Hải chôn đâu đó cũng biến mất. Ðây là vinh danh Hitchcock xen thứ 2.
- Gián tiếp và phát triển thêm: Xen thứ 1 (và xen thứ 3). Ở chỗ nào? Ở chỗ Ngô Ứng Hùng con trai Ngô tam Quế đã được chọn làm phò mã sắp cưới công chúa Kiến Ninh bị công chúa đập bá súng bất tỉnh rồi . . . cắt đứt đi thằng nhỏ của Hùng! Muốn nhìn rõ sự vinh danh Hitchcock này ta thử phân tích các thành tố chính yếu đã đưa phim Psycho đến hạng nhất về phim kinh dị có phẩm chất từ trước đến giờ. Các thành tố của xen kinh dị 1 gồm: 

(i) Nạn nhân trong trạng thái không phòng bị: đang tắm vòi sen
(ii) Nạn nhân không có gì che chở thân thể: đang trần truồng để tắm. Từ chết đến bị thương dù có chống đỡ, nếu bị đâm hay chém.

(iii) Ðịa điểm án mạng rất chật hẹp: chỗ tắm vòi sen không có đường chạy.

Kim Dung vừa vinh danh Hitchcock vừa phát triển cường độ kinh dị đến tột điểm của rùng rợn [6]. Và lại áp dụng cho nam phái! Phù hợp với đề tài thái giám của câu chuyện. Kiến Ninh phải cắt thằng nhỏ của Ngô Ứng Hùng đi bởi nàng không muốn làm vợ Hùng, một phần vì đã quen sex với Vi Tiểu Bảo qua những yêu cầu sa-điết của nàng. Cảnh Ngô Ứng Hùng lúc bị Kiến Ninh thiến sống hoàn toàn nắm đủ tất cả 3 thành tố kể trên:

(i) Nạn nhân trong trạng thái không phòng bị: bất tỉnh nhơn sự vì đầu bị đánh

(ii) Nạn nhân không có gì che thân thể: Kiến Ninh cởi quần áo y ra trong lúc y bất tỉnh;

(iii) Ðịa điểm “hành quyết” rất chật hẹp: Khi bất tỉnh rồi thì chạy đi đâu. Nhất là cái thằng nhỏ.

Nhìn lại người ta để ý ngay cả vụ 11-9 cũng hoàn toàn hội đủ 3 thành tố đó. Nó gây kinh hoàng và mãi mãi biến đổi cục diện toàn cầu.

Ngoài Hitchcock người ta để ý đặc biệt trong Lộc Ðỉnh Ký, Kim Dung vinh danh một lô các phim hoặc truyện hiệp sĩ phương Tây, như của Alexandre Dumas, của Robert Louis Stevenson, của Edmond Dantès (Bá Tước Monte Cristo). Ðặc biệt của Alexandre Dumas trong “3 người Ngự Lâm Quân” (Les Trois Mousquetaires) và “Người đàn ông trong chiếc mặt nạ sắt” (The Man in the Iron Mask – Le Vicomte de Bragellone). Cũng như trong “Tiếu Ngạo Giang Hồ”, Kim Dung đã vay mượn một ít từ truyện Scaramouche của Rafael Sabatini [5].

Trong truyện “3 người Ngự Lâm Quân” ta còn nhớ D’Artagnan lúc đầu truyện có hẹn đấu gươm với 3 anh ngự lâm kia Athos, Porthos và Aramis trên đường đi tìm ông xếp Ngự Lâm quân để xin gia nhập. Mới đọ gươm với một trong 3 anh kia được vài chiêu, quân lính hoàng triều của phe Richelieu xuất hiện, D’Artagnan quay lại hợp sức với 3 ngự lâm - một cho tất cả, tất cả cho một – đánh lại bọn lính của Richelieu một trận tơi bời te tua!

Trong Lộc Ðỉnh Ký cũng vậy, đầu truyện Mao Thập Bát rất mong mỏi gặp Trần Cận Nam lãnh tụ phe Thiên Ðịa Hội như để ngưỡng mộ anh hùng và nếu được gia nhập luôn. Y có hẹn với 2 người kiếm khách khác ở ngoài thành Dương Châu để đấu kiếm hơn thua. Hai người kiếm khách này thuộc phe Thiên Ðịa Hội của Trần Cận Nam. Ðang mới bắt đầu so kiếm thì quân lính triều Thanh xuất hiện muốn tìm bắt Mao Thập Bát vì nghi Mao là thủ phạm một vụ án mạng. Mao cùng hai đối thủ hẹn đọ kiếm kia quay lại hợp sức với nhau, đánh trả quân Thanh. Với sự trợ giúp ti tiện của Vi Tiểu Bảo, phe phản Thanh đại thắng. 

Một chi tiết khác cũng giống như “3 người Ngự Lâm” là Hoàng hậu Sophia nước Nga có liên hệ tình cảm với một bá tước (Vi Tiểu Bảo) của nước Trung Hoa đối nghịch. Giống y như hoàng hậu Pháp có tình nhân Quận công Buckingham của Anh quốc đang sắp có chiến tranh với Pháp. 

Kim Dung còn vinh danh Alexandre Dumas với truyện “Người đàn ông trong chiếc mặt nạ sắt” qua việc dựng lên, trong Lộc Ðỉnh Ký, một Thái hậu giả mang mặt nạ đánh lừa mọi người qua nhiều năm tháng. Thái hậu thật vẫn còn sống và bị Thái hậu giả giam nhốt dưới hầm chứa quần áo. Ðọc đến đoạn này, người ta không khỏi liên tưởng đến trí tưởng tượng của Alexandre Dumas trong việc dựng lên anh em sinh đôi thay nhau làm vua Louis XIV của nước Pháp. Người không được làm vua bị mang chiếc mặt nạ sắt và lưu đày ra một hoang đảo thật xa.

Ảnh hưởng của “Ðảo Kho tàng” của Stevenson, hoặc “Bá Tước Monte Cristo” của Dantes có thể tìm thấy bàng bạc qua chuyện Vi Tiểu Bảo khám phá ra một kho tàng thật khổng lồ của nhà Thanh. Muốn tìm kho tàng đó phải kiếm ra một bản đồ tản mác trong 8 quyển sách kinh thất tung lâu năm. Nhân vật chính cũng trở thành vương tước như ai mặc dù y chẳng có học, chẳng biết võ nghệ gì hết. Ðảo Thần Long chứa chấp một băng đảng ăn cướp, với giáo chủ võ nghệ tuyệt luân - khiến người đọc dễ liên tưởng đến truyện “Ðảo Kho Tàng” của Stevenson. Có lẽ đây, lần đầu truyện kiếm hiệp Tàu có màn cao thủ bậc nhất võ lâm là ăn cướp sinh sống ở ngoài hải đảo. Cao hơn Hoàng Dược Sư rất nhiều bực.

Ở những đoạn Khang Hy mưu tính đòn chính trị, thường thường hội ý với Vi Tiểu Bảo, người đọc có thể nhận ra dáng dấp “The Prince” (Vương Công) của Machiavelli. Quyển sách của Machiavelli thường dùng như sách gối đầu giường của những người làm chính trị. Cũng giống như quyển Binh Thư Tôn Tử (The Art of War) cho những nhà quân sự, và ngày nay, cho những tổng lý của các công ty thương mại. 

Ảnh hưởng của các phim James Bond cũng rất đậm nét trong các truyện Kim Dung, nhất là Lộc Ðỉnh Ký. Ðiểm đặc thù nhất của phim James Bond là gì? Là những xen đấm đá hoạt động không ngừng, gọi nôm na theo tiếng Anh là non-stop action. Những phim James Bond đã tạo thành một genre-loại đặc biệt, chứa những cảnh hiểm nguy, hoạt động đấm đá không ngừng, mà nhiều phim hoạt động hoặc kinh dị bây giờ vẫn thường xuyên xử dụng. Ðiển hình các phim với những tài tử như: Arnold Schwarzenegger ( Terminator ), Sylvester Stallone (Rambo), Wesley Snipes (Passenger 57, The Art of War), và Bruce Willis (Die Hard), v.v.. Lộc Ðỉnh Ký cũng vậy. Ta thấy Vi Tiểu Bảo cứ trải qua hiểm nguy này tiếp đến hiểm nghèo khác. Không ngừng. Những cảnh đó thường dễ làm người đọc nín thở bởi Vi Tiểu Bảo không biết mấy võ nghệ. Ngoài ra Kim Dung cũng đã vinh danh James Bond bằng cách cho Vi Tiểu Bảo có thật nhiều đào, nhiều vợ, giống như điệp viên 007.

Quay trở lại văn học Trung Quốc, Lộc Ðỉnh Ký vinh danh những văn hào nào với những tác phẩm nào? Rất nhiều, đếm không hết lại sợ thiếu sót. Nhưng rõ rệt nhất: Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần và AQ của Lỗ Tấn. Hai tác phẩm hàng đầu của Trung Hoa nhưng hãy còn hơi xa lạ đối với người Việt.

Hồng Lâu Mộng được đứng hàng đầu trong tứ tài tử của văn đàn Trung Hoa, và đã được chính Mao Trạch Ðông hồi còn sinh thời không tiếc lời ngợi khen. Ba kiệt tác kia: Thủy Hử của Thị Nại Am, Tây Sương Ký của Vương Thực Phủ và Tam Quốc Chí của La Quán Trung. 

Tác giả chính của Hồng Lâu Mộng là Tào Tuyết Cần. Với Cao Ngọc viết tiếp thêm 40 hồi sau cùng. Theo Vương Hồng Sển [7] Hồng Lâu Mộng độc đáo ở chỗ khác với các loại tiểu thuyết khác như Tây Du, Thuyết Ðường, Chinh Ðông, Chinh Tây là một tiểu thuyết đầu tiên không kết hợp từ những mẩu chuyện nhỏ un đúc trong chốn dân gian. Một sáng tác theo cảm hứng văn nghệ của Tào Tuyết Cần, tuy có dựa vào kinh nghiệm và hoàn cảnh gia đình của chính tác giả. Hồng Lâu Mộng khởi mộng từ khoảng năm 1765 vào đời vua Thanh Càn Long năm thứ 28. Câu chuyện dựng chung quanh một hai gia đình vọng tộc, trong đó có họ Giả, với những tình tiết của những người thân thuộc họ hàng với nhau. Có sex, có đồng tình luyến ái, có những mối tình tay đôi tay ba, trong chốn lầu cao cửa rộng. Về sau gia đình gặp nạn suy sút, nhân vật chánh Bửu Ngọc thi đỗ nhưng lại chọn đường xuất gia đi tu. Hồng Lâu Mộng thành công nhờ ở nhiều điểm, nhưng điểm chánh nằm ở hội tụ được phân tích tình cảm và tâm lý của một lô các nhân vật, nhất là các nhân vật nữ phái. Từ mẹ của Bửu Ngọc đến các chị, các em, các người bà con thân thuộc và luôn cả các a-hoàn phục dịch trong nhà.

Kim Dung vinh danh Tào Tuyết Cần bằng rất nhiều cách. Thứ nhất Kim Dung bắt chước đoạn đầu và đoạn cuối của Hồng Lâu Mộng. Hai hồi đó không liên hệ trực tiếp đến câu chuyện ở phần chính. Trong Hồng Lâu Mộng tác giả cho vào hồi đầu câu chuyện một tảng đá lâu ngày thu thập được linh khí biết di chuyển và biết viết lách ghi lại câu chuyện của Hồng Lâu Mộng. Chuyện đó được một ông sư đi ngang khám phá và chép lại cho đời sau. Sau khi kết cuộc câu chuyện, vị đại sư đó mới hỏi hòn đá tại sao câu chuyện không có nhân vật nào đại trung, đại thần hết vậy. Như vậy làm sao để đời được. Trong Lộc Ðỉnh Ký cũng vậy. Kim Dung cho vào một đoạn đầu kể chuyện những nhà trí thức ái quốc (có thật, như Cố Viêm Vũ, Hoàng Tông Hy và Lã Lưu Lương; cũng như nội tổ của chính tác giả Kim Dung Tra Lương Dung là Tra Y Hoàng) gặp gỡ nhau và trong lúc trà dư tửu hậu bàn về những chuyện vu oan giá họa do những gian thần người Hán gây nên để trừ khử các nhà ái quốc. Rồi vào hồi hai mới giới thiệu Vi Tiểu Bảo và vào câu chuyện. Gần đến kết cuộc Kim Dung mới lôi mấy nhà trí thức đó ra thuyết phục Vi Tiểu Bảo trở về Thiên Ðịa Hội để tiếp tục chuyện phục quốc. Nặng tình nghĩa với vua Khang Hy, và cũng thành thật với chính mình, Vi Tiểu Bảo đã chọn con đường rút lui về ở ẩn.

Lộc Ðỉnh Ký cũng vinh danh Hồng Lâu Mộng bằng cách mô tả tỉ mỉ những mâu thuẫn tâm lý tình cảm của một lô các nhân vật phái nữ. Ða số đều lọt vào tay và trở thành vợ của Vi Tiểu Bảo. Tâm lý và những ước mơ, khát vọng cùng những giằng co nội tâm của Vi Tiểu Bảo, một người con trai xuất thân bần cùng và thất học, cũng được Kim Dung phân tích đến nơi đến chốn. Nếu Hồng Lâu Mộng có tả về thủ dâm mộng dâm, Lộc Ðỉnh Ký đáp ứng bằng sex theo khổ dâm sa điết của Kiến Ninh, và mặc cảm Oedipus của Vi tiểu Bảo, si mê những người đàn bà đáng tuổi má mình: Trần Viên Viên và Tô Thuyên. Lại cũng như Hồng Lâu Mộng, Lộc Ðỉnh Ký cho thấy sau bức màn nhung bên ngoài, sự xung đột vẫn thường xuyên xảy ra giữa các tầng lớp, phe phái và thế lực, phục Minh hay ngay trong triều Thanh, của xã hội phong kiến. Lộc Ðỉnh ký còn dứt khoát theo con đường Hồng Lâu Mộng đã vạch ra: Không thèm xây dựng tiểu thuyết trên những nhân vật đại thần đại trung nữa. Ðặt kính hội tụ vào một nhân vật xuất thân từ nơi đầu đường xó chợ và đưa y đến hàng đại thần nhà Thanh hay . . . gian tặc đối với người Hán, tùy theo góc nhìn của xã hội đương thời.

Ảnh hưởng của Lỗ Tấn ra sao? Lỗ Tấn một văn hào lớn của Trung Hoa trong thế kỷ 20. Chuyên về truyện ngắn nói lên những khổ đau của con người, Lỗ Tấn nổi tiếng nhất với “AQ chính truyện” (Muốn đọc Lỗ Tấn, xem ghi chú [8]). Và Vi Tiểu Bảo của Kim Dung có nhiều điểm rất giống nhân vật AQ của Lỗ Tấn. Hai người Bảo và Q đều xuất thân từ giai cấp thấp hèn nhất của xã hội Trung Hoa. Cả hai đều thuộc lớp mù chữ. Riêng Vi Tiểu Bảo mù chữ đến nỗi ký tên thật y thành tên Tiểu viết ra như vẽ hình “thằng nhỏ”. Thật thành giả, giả thành thật. Vi Tiểu Bảo ký tên “thằng nhỏ”. “Thằng nhỏ” viết theo chữ Hán là Vi Tiểu Bảo. Cả AQ và Vi Tiểu Bảo đều thích cờ bạc đánh bài. Kim Dung đã vinh danh Lỗ Tấn bằng cách xây dựng những cá tính chánh của Vi Tiểu Bảo giông giống AQ. Tuy nhiên Vi Tiểu Bảo có số sướng hơn AQ rất nhiều và không bị đoản mệnh như AQ.
Thấp thoáng trong Lộc Ðỉnh Ký ta còn gặp nhiều hoạt cảnh và hình dáng của những nhân vật truyện Tàu thuở trước. Ở cặp Vi Tiểu Bảo-Song Nhi, ta có thể nhớ đến Cam Tử Long-Lã Mai Nương, trong truyện Lã Mai Nương. Lã Mai Nương do vị Thầy của Cam Tử Long cho xuống núi đi theo Cam Tử Long để tìm kẻ tử thù. Song Nhi cũng vậy - được Trang gia chủ tặng riêng cho Vi Tiểu Bảo - để theo và bảo vệ chàng bôn ba trong chốn giang hồ. 

Rồi giống như Thủy Hử , Lộc Ðỉnh Ký tạo nên đám Thần Long giáo tuy ăn cướp nhưng cũng lấy được một chút chính danh, do ở việc cấu kết với Nga chống lại Thanh triều, và lo tìm kho tàng để lấy vàng bạc châu báu, cắt đứt long mạch nhà Thanh. Thủy Hử có nhà sư Lỗ Trí Thâm chuyên lén đi ăn thịt cầy, Lộc Ðỉnh Ký có sư Vi Tiểu Bảo pháp danh Hối Minh lén đi vào một kỹ viện gần chùa cho đỡ buồn trống, cho đỡ chổng. Chẳng may chưa làm ăn gì hết y bị hai cao thủ phái nữ tấn công đòi giết. Y phải hoá trang kỹ nữ trốn chạy có cờ.

Lộc Ðỉnh Ký còn thường xuyên nhắc đến các nhân vật của Tam Quốc Chí. Vi Tiểu Bảo khi thống lãnh quân đội cũng áp dụng những chiến thuật của Khổng Minh y học lóm được từ những khách làng chơi ghé lại kỹ viện Lệ Xuân, nơi y sinh sống thuở thiếu thời. Lộc Ðỉnh Ký cũng vinh danh con ngựa xích thố của Lã Bố và Quan Vân Trường bằng cách cho vào một hồi về giống ngựa đua Vân Nam của Ngô Ứng Hùng. 

Lộc Ðỉnh ký cũng lên án một vài “minh quân” người Hán bằng cách nhắc lại sự tích Lưu Bang, được chim bẻ ná, giết tướng Hàn Tín sau khi thắng Hạng Vũ. Kim Dung mượn lời nhân vật Lã Lưu Lương nói với Vi Tiểu Bảo vào đoạn cuối, nhằm thuyết phục anh chàng họ Vi đứng ra lãnh đạo Thiên Ðịa Hội và các phong trào kháng Thanh: “Hán Cao Tổ (Lưu Bang) xuất thân đại lưu manh, làm chuyện bậy bạ còn nhiều hơn ngươi, nhưng rốt lại vẫn trở thành ông vua khai quốc của nhà Hán”. Diễn lại vở tuồng Lưu Bang hạ Hàn Tín, Lộc Ðỉnh ký cho Trịnh Khắc Sảng công tử của xếp của Trần Cận Nam dùng dao nhọn đâm lén vào lưng của Trần Cận Nam chỉ vì Cận Nam, mặc dù hết sức trung thành với Trịnh Vương, không hoàn toàn tuân những mệnh lệnh điên khùng của công tử Khắc Sảng. Lộc Ðỉnh Ký cũng vẽ lại hoạt cảnh Hàn Tín thuở thiếu thời luồn trôn một tay anh chị đứng đường, bằng cách cho Vi Tiểu Bảo chui qua háng của Tô Thuyên để trốn chạy Hồng Giáo chủ đang rượt đuổi. 


Giải hoá các mâu thuẫn

Một trong những kỹ thuật chính yếu của nghề viết tiểu thuyết là tạo cho nhân vật các giằng co tâm lý khó xử, nhiều tình huống mâu thuẫn, và nếu được những thế lực hoặc xã hội hoặc cá nhân, tương phản, kình chống với nhau, trùm lên đầu nhân vật chính. Rồi tìm cách giải tỏa chúng vào cuối câu truyện.

Tất cả những nhà văn nổi tiếng như cồn đều đã đề ra giải pháp ổn thoả cho các gút mắt trong truyện mà đa số các độc giả có thể chấp nhận được hoặc cảm thấy thoải mái. Thí dụ, truyện Kiều phải kết cuộc làm sao mới vừa tổng hợp được các triết lý Khổng Mạnh, triết lý nhà Phật, triết và hồn Việt [9], luân lý và đạo đức của dân tộc, đạo làm người, thuyết tài mệnh tương đố, v.v. vừa giải quyết được mâu thuẫn của câu chuyện. Văn hào Nguyễn Du đã thành công trong chuyện đó ngoài việc chấm bút tạo áng thi văn bất hủ. 

Truyện của Kim Dung sở dĩ thành công, một phần lớn nhờ ở những giải hoá các mâu thuẫn đó. Trong “Anh Hùng Xạ Ðiêu” Quách Tĩnh trái lời 7 vị Thầy đi yêu con gái một người mang danh Ðông Tà. Trước đó y đã yêu và hứa hôn với một người công chúa Mông Cổ. Trong “Lục mạch Thần Kiếm” Kim Dung cho người đọc nín thở khi thấy thái tử Ðoàn Dự chuyên đi yêu các em gái của mình. Rồi tới màn Ðoàn bị giam chung với một em gái và bị uống thuốc kích dâm sao đó. Kết cuộc người Ðoàn Dự mê mệt, Vương Ngọc Yến, do chính bà mẹ Ðoàn Dự trối trăn, thật ra không phải là em gì của Ðoàn Dự hết. Mấy người em gái kia cũng vậy. Con muốn lấy ai thì lấy. Trong “Tiếu Ngạo Giang Hồ” Lệnh Hồ Xung được nhiều người yêu. Mỗi người yêu một kiểu. Rồi Lệnh Hồ Xung lại đi yêu con gái của giáo chủ của Ma giáo. Kim Dung phải lái người đọc làm sao để ai cũng có thể chấp nhận cô dâu Nhậm Doanh Doanh với đầy lý lịch Ma giáo đó.

Tiểu thuyết muốn được người đọc yêu chuộng hơn nữa phải luôn luôn có những mâu thuẫn tiểu tiết lồng trong những mâu thuẫn gút mắt chính. Thí dụ 1, mâu thuẫn tiểu tiết về tương quan của Ngũ Hành như đã trình bày ở trên. Thí dụ 2, một trong những mâu thuẫn tiểu tiết của Lộc Ðỉnh Ký là chuyện ăn vụng giữa Kiến Ninh với Vi Tiểu Bảo. Vua Khang Hy với mưu tính chánh trị muốn gả em gái Kiến Ninh cho Ngô Ứng Hùng con trai Ngô Tam Quế. Làm sao giải quyết chuyện động trời này, và đồng thời gây được kinh dị, tiếu lâm, thích thú, vừa thoả đáng được các đòi hỏi của luân lý – và cũng nằm trọn trong cái đề luận phụ của câu chuyện (về . . . có thằng nhỏ và không có thằng nhỏ). Kim Dung đã giải tỏa cái gút đó bằng cách cho Kiến Ninh đánh vào đầu Ứng Hùng bất tỉnh rồi lẹ tay cắt đứt . . . thằng nhỏ của Ứng Hùng đi. Rồi la to rằng Ứng Hùng vào đó tính hiếp thị cho biết mùi vợ chồng và để . . . trả thù dân tộc! Sau đó dù Ứng Hùng có trở thành chồng Kiến Ninh, Ứng Hùng cũng chỉ giống như . . . một thái giám mà thôi.

So với các tiểu thuyết trước của Kim Dung – những mâu thuẫn chính và phụ trong Lộc Ðỉnh Ký khó khăn gấp bội phần. Khó khăn ở chỗ đó là những mâu thuẫn tình cảm, thế lực và nhất là chính trị, chủng tộc và văn minh, văn hiến, v.v. Những mâu thuẫn này Kim Dung đã giải hoá thật hay.

Hai mâu thuẫn chính, thường xuyên giao tác với nhau, nằm ngay ở phần xương sống của câu chuyện: Phản Thanh phục Minh với lòng ái quốc và chủ nghĩa cá nhân. Lồng vào đó một ý niệm thể hiện qua thành ngữ quen thuộc của người Ăng Lê, nổi tiếng với đầu óc thực tiễn: “If you can’t beat them, join them” (Nếu bạn không hạ được đối phương, hãy nhập bọn với chúng). Nhiều khi được kèm theo: “And beat them later” (Và để rồi hạ bọn chúng sau). 

Theo với nền luân lý Khổng Mạnh và văn hoá Trung Hoa từ ngàn đời, quân dân phải luôn luôn trung thành với vua. Người ta chỉ có thể chuyển đổi sự trung thành đó khi triều đại hoàn toàn suy thoái và có một vị vua khác, do . . . mệnh trời chỉ định, đã lên được ngôi vua ở triều đình rồi. Những vị quan to có bất mãn với đương kim hoàng đế hay bị thất sủng, chỉ có nước xin vua cho trở về qui ẩn. Vua hay chúa của mình có bị thất trận, chết, và nếu không có ấu chúa cần phải bảo vệ, quần thần phải tuẫn tiết chết theo. Ðó là trường hợp Vương Thừa Ân đối với vua cuối triều Minh Sùng Trinh. Trường hợp hàng ngàn tướng sĩ theo phò các vị hoàng thân triều Minh nổi dậy chống nhà Thanh – khi chủ tướng của họ bị nhà Thanh dẹp tan. Những đám tàn quân cấp dưới có thể di tản sang một nước khác để chờ ngày trở về. Như trường hợp một nhóm Thiên Ðịa Hội di tản sang nước An Nam, sau những cuộc khởi nghĩa chống nhà Thanh bị thất bại. 

Thêm vào đó, cho mãi đến thế kỷ 20, lối sống dân tộc Trung Hoa vẫn luôn dựa vào hệ thống giá trị của văn hoá ngàn đời, thể hiện bằng những câu “thánh ngữ” như: “Quốc gia hưng vong thất phu hữu trách” hoặc “Quân xử thần tử - thần bất tử bất trung”. Hay tam cương ràng buộc “thần phải trung thành với quân vương, con cái phải hiểu để với cha, vợ phải tòng phục chồng”. Giá trị của con người nằm ở ngũ thường: “Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín”. Còn rất nhiều, nhiều “thánh ngữ” biểu tượng cho hệ thống văn hoá, và giá trị cổ truyền Trung Quốc. Nhưng hay cũng như dở, hợp lý hay vô lý, chính các “thánh ngữ” này đã giúp Trung quốc không ít trong việc tồn tại như một quốc gia cho mãi đến ngày nay. Chủ nghĩa cá nhân theo kiểu Tây Phương có một chỗ đứng rất nhỏ, nếu không nói không có, trong xã hội Trung quốc cổ xưa, nhất là trong tầng lớp quyền bính. Thánh ngữ “quân xử thần tử - thần bất tử bất trung” lan tràn mạnh mẽ sang những nước láng giềng, và lên đến tột đỉnh tại Nhật Bản tại các lãnh địa sứ quân. Như rất nhiều phim hiệp sĩ đạo của Nhật cho thấy [11]. Chủ nghĩa cá nhân, mặc dù luôn tiềm ẩn với mọi con người, làm sao phát triển được khi vua hay sứ quân bảo mình chết – không cần biết vì lí do gì – mình cũng phải chết. Nhỡ các quân vương đó bảo mình chết vì muốn chôm đào nhí hay giựt bạn trai của mình thì sao?

Cái văn hoá phong kiến đó đã chui vào xương tủy dân Hoa suốt cả ngàn năm. Không nhúc nhích. Văn chương chữ nghĩa lúc nào cũng nhồi vào sọ người dân những thứ “thánh ngữ” này. Ngay đến các tiểu thuyết trước thời Hồng Lâu Mộng – như chính Hồng Lâu Mộng có nhắc nhở - thường phải có vai trò của một vị đại trung đại thần bảo vệ giang san và . . . triều đình. Hồng Lâu Mộng chính lần đầu tiên một truyện dài đã không xử dụng vai chính những đại trung đại thần. Và Kim Dung chính tác giả đầu tiên đã đối diện trực tiếp đến những “thánh ngữ” đó và hùng hồn biện minh cho việc dung hoà với một số điều hay việc tốt của văn hoá phương Tây. Hành trình của Vi Tiểu Bảo chính là hành trình của một người mang chủ nghĩa cá nhân xuyên qua những xung đột và mâu thuẫn về chính trị, văn hoá, hệ thống giá trị Khổng Mạnh, biên giới quốc gia, quân sự, võ biền, tình cảm, luyến ái, và mưu cầu tự do và hạnh phúc cuộc đời. Tất nhiên hành trình đó đầy chông gai hiểm nghèo và người phiêu lưu bất đắc dĩ đó chỉ được trang bị bằng bản lĩnh chợ trời, và bản năng sinh tồn tự nhiên con người, mô tả bằng câu thành ngữ của người Anh: “Nếu bạn không hạ được đối phương – hãy nhập bọn với chúng, để rồi hạ chúng sau”.

Vi Tiểu Bảo trước hết bị giam lỏng trong hoàng cung. Sau đó sợ chết, y phải gia nhập đoàn thái giám. Rồi tình cờ y quen biết với hoàng đế Khang Hy trạc tuổi y, ưa tập võ nghệ. Sau khi giết Ngao Bái y bị phe Thiên Ðịa Hội câu lưu vì thấy y người Hán sao lại có chức trong triều đình Thanh. Y phải gia nhập Thiên Ðịa Hội. Sau đó vài năm y bị bọn Thần Long giáo bắt ép gia nhập. Hai người y yêu Phương Di và Mộc Kiếm Bình cũng vậy. Cũng bị cho uống thuốc độc bắt phải theo Thần Long giáo. Y phải gia nhập vì sợ chết nhưng trong bụng y ghét nhất Thần Long giáo, chỉ trừ Hồng phu nhân Tô Thuyên thôi. Nhiều năm sau, chính y được Khang Hy giao sứ mệnh đi dẹp Thần Long giáo. Ðối với Thần Long giáo, đặc biệt Vi Tiểu Bảo vì “không hạ được chúng, nên đã nhập bọn với chúng, để rồi hạ chúng sau”. Và gần như bản năng sinh tồn của Vi Tiểu Bảo trong những lúc nguy biến đều có thể được mô tả một trăm phần trăm như kiểu thành ngữ này. Cứ mỗi khi Vi Tiểu Bảo áp dụng thành ngữ Ăng Lê này, y đều thành công. Tuy nhiên, một đôi khi nó cũng đưa y đến bên bờ vực thẳm, mất mạng như chơi.

Thế nhưng chiến thuật kiểu cơ hội chủ nghĩa đó hiển nhiên rất mâu thuẫn với hệ thống giá trị cổ truyền Trung Hoa. Ngoài đó ra, Lộc Ðỉnh Ký còn chất chứa hàng chục thứ mâu thuẫn khác nữa. Kim Dung đã giải quyết mâu thuẫn của xung đột giữa hệ thống giá trị cổ truyền Trung Quốc với mưu cầu tự do và hạnh phúc cho con người Vi Tiểu Bảo ra sao? 

Quan trọng nhất, Kim Dung cho Vi Tiểu Bảo hoàn toàn thất học. Nhưng cho Vi một mớ hiểu biết lờ mờ về lịch sử . . . theo kiểu chợ trời bởi những kiến thức đó của anh tiến sĩ chợ trời đã được thu lượm và nghe lóm từ những “tiên sinh” kể chuyện ở đầu đường hay tại kỹ viện nơi Vi sinh sống. Ðặc biệt Vi Tiểu Bảo gần như bị dị ứng đối với vấn đề học hành, từ chữ nghĩa đến võ nghệ. Ðiểm này hơi vô lý bởi Tiểu Bảo làm quan lớn một thời gian dài – y chỉ cần thuê một số lão sư đến dạy chữ nghĩa cho y, ngay cả vừa ngủ vừa học cũng được. Nhưng không, từ đầu đến đuôi Vi hoàn toàn không chịu khó học được một câu, viết được một từ đàng hoàng. Mặc dù y biết y nói sai bởi có nhiều người, kể cả Khang Hy, sửa sai những câu thánh ngữ y thốt ra, hoặc những điển tích y muốn ví von so sánh. Tại sao vậy? Tại vì nếu cho y biết chữ y sẽ bị kẹt vào thế: “nước nhà lâm nguy, người trí thức phải có trách nhiệm”! Phải gia nhập Thiên Ðịa Hội, hoặc phong trào của mấy vị hoàng thân vương tôn tàn dư của Minh Triều, một cách nghiêm túc. Không thể nào cù cưa với Khang Hy hoặc ăn nằm với Kiến Ninh được trừ phi muốn … trả thù dân tộc. Có chữ một chút khộng được, bởi có chữ có nghĩa Vi biết cái giá trị chính giữa của xã hội, của dân tộc Trung Hoa, biết phân biệt theo với hệ thống giá trị đó, phe ta phe thù. Những giá trị và quan niệm Trung Hoa đó không cần biết hay hoặc dở, đúng hay sai, kinh điển hay không, vẫn là một hệ thống giá trị của một dân tộc. Vi mang nợ núi sông vì đã được hưởng thụ thành quả của hệ thống giá trị đó. Do đó Vi phải trả nợ đó. Vi cũng, bởi ràng buộc của hệ thống giá trị cũ, không thể theo được chủ nghĩa cá nhân, mưu cầu tự do hạnh phúc cho riêng mình. Chính bởi ở lý do đó, muốn được tự do hành động theo riêng bản năng mình, phù hợp với chủ nghĩa tự do cá nhân, Vi không thể biết gì đến chữ nghĩa.

Vi Tiểu Bảo cũng không thể học võ với ai, bởi môi trường võ nghệ lại chỉ có một mục đích tối thượng. Người chốn giang hồ hay võ biền phải lo bênh vực kẻ yếu thế cô. Phải lo đáp ơn sông núi. Phải dùng tài võ nghệ của mình để điều binh khiển tướng hòng đánh đuổi quân xâm lăng ra khỏi bờ cõi nước nhà. Người kiếm khách Trung Hoa còn luôn luôn có những quy ước hành động bất thành văn. Trong đó, không bao giờ có cái chuyện “Nếu bạn không hạ được đối phương, hãy nhập bọn với chúng” mà Vi Tiểu Bảo hằng xử dụng như một ngón võ tuyệt chiêu không những bảo vệ tính mạng của mình, mà còn dùng nó để thăng quan tiến chức. Không được, Vi Tiểu Bảo không được biết đến chữ và võ. Kim Dung giải hoá các mâu thuẫn đó bằng cách cho Vi Tiểu Bảo hoàn toàn bị dị ứng từ chuyện học chữ đến chuyện luyện võ. Vi Tiểu Bảo vẫn mù chữ và dốt võ từ đầu đến cuối truyện. Lộc Ðỉnh Ký đã cho thấy những tình huống, những màn kịch rất hợp nhất với lô gích. Từ lô gích ngũ hành đến lô gích của hệ thống các giá trị, cũ và mới.Với một bố cục thật chặt chẽ. 

Tuy nhiên, ở điểm này ta thấy, Kim Dung đã dung hoà hay đúng hơn “nhượng bộ” thế lực của hệ thống giá trị cũ của Trung Hoa. Luận đề chính vẫn không hề hấn, không bị suy suyển: Thời đó vẫn có một con người đã có thể hợp tác với Thanh triều. Vô học hay có học theo nguyên lý bất nhị cũng y như nhau. Chỉ quan trọng ở chỗ có một người Hán làm lớn trong triều nhà Thanh và làm được nhiều điều ích lợi cho dân Trung Hoa và nước Trung Hoa. Và động cơ mạnh mẽ để thúc đẩy và giúp y làm nên việc, là chủ nghĩa cá nhân, mưu cầu tự do hạnh phúc con người. Và cá nhân y thành công – không bị Khang Hy giết chết, hay các phe kháng Thanh cho đi mò tôm, dù biết y một dạ hai ba lòng – chung qui cũng nhờ ở những giá trị cổ truyền Trung Hoa vẫn có trong người y: lòng chung thủy, trung thành, và hai chữ tín nghĩa. Y cũng có trí, dù đó là một loại trí chợ trời. Trí chợ trời với trí khoa bảng, qua Lộc Ðỉnh Ký, không biết loại nào hơn loại nào. Nếu so sánh cái trí của y với cái trí của sư phụ y là Trần Cận Nam. Trần Cận Nam học sâu hiểu rộng, thường là thần tượng, người hùng kiểu mẫu trong giới giang hồ. Thế nhưng cái trí của Trần Cận Nam bị mớ giá trị cổ truyền kia làm cho Nam mù mờ không biết rằng Nam đang phục vụ một sứ quân bất tài như Trịnh Khắc Sảng để rồi về sau bị Sảng đâm lén sau lưng. Trong khi Vi Tiểu Bảo nhờ thất học nhưng với trực giác và trí thông minh của giới chợ trời biết tẩy ngay con người của Trịnh Khắc Sảng ngay khi mới gặp. Nhưng đối với lễ, y hoàn toàn không có. Kim Dung cho y chửi thề từ đầu đến cuối. Rồi lây tính chửi thề qua Khang Hy. “Con mẹ nó,…”. Thỉnh thoảng y cũng khoái ăn mặc đẹp theo cách nhà quan nhưng dường như y có vẻ không được thoải mái mấy.

Phải chăng chi tiết “thất học” của Vi Tiểu Bảo được Kim Dung dùng để đưa một thông điệp chính. Với hai thành tố. Thứ nhất có nên dung hoà hoặc bổ xung hệ thống giá trị cổ truyền Trung Hoa với một số giá trị Tây phương hay không. Bút hiệu của Kim Dung đích thị mang ý nghĩa của thành tố này. Kim mạng Kim theo Ngũ hành, chỉ phương Tây, cũng có nghĩa hiện đại. Dung tức ‘trung dung’ theo nguyên tắc Khổng Mạnh, chọn một đường hướng không cực đoan quá khích. Nhưng cũng có âm giông giống ‘dung hoà’. ‘Kim Dung’ có thể mang nghĩa chọn một con đường ‘trung dung’ với hoàn cảnh hiện đại, hoặc tản mạn ra: dung hoà với giá trị hiện đại, giá trị phương Tây. Thành tố thứ hai phải chăng khi cho Vi Tiểu Bảo, một người trẻ tuổi, hoàn toàn vô học cả văn lẫn võ Kim Dung có ngụ ý những người mù chữ, bởi không biết gì hết đến hệ thống giá trị cổ truyền và những ràng buộc của nó, và hãy còn trẻ, nên dễ hành động theo bản năng con người mình hơn và dễ . . . tiếp thu được cái hay cái mới hơn?

Còn thêm một thông điệp nhỏ nữa trong vấn đề Vi Tiểu Bảo không biết nhiều võ công. Bởi có biết cũng không giúp ích được cho y trong những công tác trọng đại Khang Hy giao phó. Thời Vi Tiểu Bảo bắt đầu là thời thế lực mạnh mẽ của súng đạn Tây Phương. Nước Tàu từ đó về sau cho dù có đến “Võ Lâm Ngũ Thiên Bá” cũng khó lòng thay đổi được cục diện quốc phòng, và an ninh quốc gia. Giới giang hồ đang bắt đầu lo gác kiếm, nghỉ hưu.

Nếu nhìn kỹ, chi tiết bắt Vi Tiểu Bảo phải thất học, từ văn đến võ, thật ra là một “nhượng bộ” giả của Kim Dung. Chính ra đó là lối thuyết phục nhẹ nhàng của tiểu thuyết. Vừa để giải toả mâu thuẫn vừa đưa những người đọc khó tính, và bảo thủ đối với hệ thống giá trị cổ truyền của Trung Hoa, đến chỗ chấp nhận các hành vi của Vi Tiểu Bảo. Kim Dung đã làm người đọc khó tính dễ bị lôi cuốn bởi phiêu lưu vô bờ bến, tuy thiếu chất võ hiệp của chàng Hán tộc họ Vi. Trong lúc tác giả âm thầm tấn công hệ thống giá trị cổ và đồng thời rót nhẹ vào tai người đọc những điểm nóng hay nguội cần phải dung hoà với văn hoá và văn minh Tây phương. 

Mặt khác, có nhiều chi tiết cho thấy Kim Dung vẫn chấp nhận tam cang ngũ thường nhưng đưa ra một thông điệp mới: Cần phải xem lại từng giá trị một và áp dụng theo tùy trường hợp. Thí dụ, Vi Tiểu Bảo vẫn có thể trung thành với vua gốc Ðông Di là Khang Hy, bởi vua chơi đẹp với y. Trước công tác nào cũng vậy vua hứa nếu y làm được việc vua sẽ trọng thưởng. Và vua luôn luôn giữ lời hưá. Y trung thành với vua đến nỗi sẵn sàng chết thay vua, hay không thèm đi phá long mạch người Mãn để cho nhà Thanh tiêu tùng. Trong khi đó các phe phục Minh chưa gì đã xâu xé lẫn nhau và tuy cùng chung mục tiêu vẫn thường xuyên tranh chấp với nhau, bởi mỗi phe đi phò một ông hoàng thân khác nhau. Họ không bao giờ nhất thống, trong tư tưởng và hành động. Tệ hơn nữa Trịnh Khắc Sảng chưa chi đã đâm lén công thần số 1 của mình là Trần Cận Nam chỉ vì Cận Nam chỉ tuân theo lệnh của Trịnh Vương, cha của y. Tiếu lâm hơn, Kim Dung vạch ra mặt trái của loại “tam cang” chồng chúa vợ tôi bằng cách mô tả, công chúa Kiến Ninh hành hạ Vi Tiểu Bảo trong những lần chăn gối vì sa điết, và lúc “xuất giá tòng phu” Kiến Ninh lại “xuất chiêu” cắt đứt cái phụp “thằng nhỏ” của phu quân Ngô Ứng Hùng. Vi Tiểu Bảo đã từng chui qua háng Tô Thuyên, một người vợ sau này của y. Vi Tiểu Bảo theo người yêu công chúa Sophia trở về Mát-Cơ-Va, v.v. Trong nhiều chi tiết về vợ chồng, Kim Dung cho thấy người vợ vẫn có thể trên cơ, hay nằm trên người chồng như thường.

Lộc Ðỉnh Ký cho thấy Kim Dung cũng không hoàn toàn phá tung toàn bộ hệ thống giá trị cổ truyền Trung quốc. Ta để ý Vi Tiểu Bảo sau cùng phải . . . cưới tất cả những người đàn bà nào y yêu hay yêu y. Ðặc biệt gồm cả 4-5 bà y đã xơi tái nhân cơ hội mấy người này bị hôn mê bất tỉnh. Rồi kể cả Kiến Ninh người như đã …. hiếp dâm y và cho y biết mùi khổ lụy của tình ái. Y đều cưới tất cả và đem về trình diện với má y đàng hoàng. Chỉ trừ công chúa Sophia của nước Nga, y chỉ yêu sơ sơ rờ-măng thôi. Ở điểm này ta thấy Kim Dung lại rất cẩn thận, nói lên quan niệm, luyến ái phương Tây không nhất thiết phải dẫn đến vợ chồng.

Tạo ra Vi Tiểu Bảo một người thất học trèo lên địa vị cao sang Kim Dung cũng đưa một thông điệp nhỏ: Vi Tiểu Bảo không tham lam quá độ. Lúc nào cũng thấy mình được như vậy là quá rồi. Ngay cả chết y cũng (giả bộ?) không sợ. Chỉ nhờ ở chỗ y biết y dốt và sức y có hạn. Phải chăng đó cũng là chìa khoá để đưa đến giác ngộ, tự do và hạnh phúc? Một điểm tiếu lâm nhỏ ở cuối câu chuyện phải kể, các nhà nhân sĩ đi kiếm Vi và thuyết phục y ra làm minh chủ Thiên Ðịa Hội. Họ tính gạt y bằng cách xin y tên tuổi của bố y để đi xin cho y một lá số tử vi. Chắc chắn số tử vi đó sẽ nói y có mạng đế vương để y ham mà nhảy ra lãnh chức minh chủ các phong trào kháng Thanh. Nhưng không, y không ham gì cả và đáp chính y không biết cha là ai, và nói làm lãnh tụ cực lắm y không đủ sức. Thông điệp về “tri túc”, về biết đủ là đủ, lại được Kim Dung nhấn mạnh qua lời nói của Hồng phu nhân tức Vi phu nhân sau này, trước khi Hồng An Thông từ giã cõi đời. Lúc đó Hồng giáo chủ đòi giết Vi Tiểu Bảo, và lẩm bẩm đòi sống thọ ngang . . . với trời. Hồng phu nhân che chở cho Vi và nói đại khái: “Ông đã oai danh cả đời. Như vậy là đủ quá rồi”. 

Trong việc cấu tạo nhân vật Vi Tiểu Bảo, Kim Dung còn để ý đến gốc gác của Vi bằng cách cho bà mẹ Vi tiết lộ với Vi thật ra bà không biết cha y là ai. Bởi bà có đủ thứ khách tại kỹ viện: Hán, Mông, Tạng, Mãn, v.v. chỉ trừ người Tây dương mà thôi! Với mục đích gì? Có lẽ cho Bảo có gốc gác về huyết thống mù mờ Bảo có thêm một lý do khác để hợp tác với người Mãn Thanh. Y có thể nói cha tôi có lẽ là người Mãn. Ðể ý Kim Dung còn bảo hiểm và tránh tiếng cho Vi Tiểu Bảo bằng cách cho Vi sống trên một hòn đảo với bảy người vợ trong suốt những năm vua Khang Hy đem quân dẹp hết các nhóm phản Thanh phục Minh. Ðể Vi Tiểu Bảo hoàn toàn không bị mang tiếng Hán gian. Thật ra Kim Dung chỉ muốn Vi Tiểu Bảo được an toàn trên hệ thống xa lộ của giá trị cổ truyền, không phải đơn thuần vì lí do nhượng bộ (giả). Nhưng có lẽ bởi những thông điệp chính cần được chải chuốt đến mức tối đa, không thể bị cọ xát bởi ảnh hưởng của lý lịch. 

Khi bật mí lí lịch có vẻ hợp chủng của Vi Tiểu Bảo về huyết thống của người Cha phải chăng Kim Dung lại đưa thêm một hai thông điệp nữa. Ðó là, người Tàu thật ra cũng đã là một thứ hợp chủng như người nước Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ rồi. Về huyết thống nó đã có đầy những cái hay, không thiếu chi “chất xám”. Chỉ cần dung hoà thêm về quan niệm và chủ nghĩa cá nhân của Tây phương nơi khối óc. Khối óc nhỏ bé của Vi Tiểu Bảo. Thông điệp đó cũng khơi lên “giấc mộng Mỹ” nơi đó nếu có cố gắng, giấc mơ nào cũng thực hiện được. Một người nửa Hán nửa tạp chủng như Vi có thể hiện thực được giấc mơ của mình giữa triều đại quân chủ phong kiến của người rợ Ðông Di, thì triều đại đó phải là một thứ triều đại số dách rồi.

Mâu thuẫn của một người Hán, hay nửa Hán nửa gì đó, phục vụ cho một triều đại ngoại chủng còn được Kim Dung giải hoá thật hay qua chồng hồ sơ lí lịch khác của Vi Tiểu Bảo. Ðó là chồng hồ sơ một chuyên gia hay một nhà chuyên nghiệp. Chuyên gia là gì và tại sao Vi Tiểu Bảo hội đủ lí lịch đó. Một nhà chuyên nghiệp, hay chuyên gia, theo ý nghĩa “pro” thông thường của Tây phương là một người xử dụng kỹ năng của mình để kiếm sống và không để ý đến căn cước hay lí lịch của khách hàng, hay người mình phục vụ. Một bác sĩ y khoa vẫn phải chăm sóc sức khoẻ cho một bệnh nhân có thành tích ăn cướp giết người. Một chuyên viên giải phẫu khi phải lắp nối lại một “thằng nhỏ” bị cắt không bao giờ hỏi người bị cắt đó có phải là một tội nhân chuyên hiếp dâm hàng loạt hay không. Nguời luật sư luôn luôn phải bênh vực thân chủ mình dù người đó có bị cáo về tội khủng bố, ăn cướp, giết người. Hay một nhà độc tài vừa bị bắt hay truất phế. Ý niệm “nhà chuyên nghiệp” ngày nay đã lan tràn qua rất nhiều lãnh vực, nhiều ngành nghề và vượt khỏi biên giới, tinh thần quốc gia. Và hình như chỉ còn bị giới hạn ở những lãnh vực “chuyên nghiệp” liên quan đến quốc phòng mà thôi. Người ta thấy những giáo sư đại học, những khoa học gia, những tài tử và đạo diễn như Antonio Banderas, Catherine Zeta-Jones, Nicole Kidman, Penelope Cruz, Ang Lee, John Woo, Chou Yun Fat, v.v. - những nhà chuyên nghiệp với niềm hãnh diện của các quốc gia sản xuất ra họ - chẳng mấy chốc đều trở thành Mỹ kiều hết ráo. Các nhà thể thao nổi tiếng, nhất là các ngôi sao về tennis, về bóng rổ - như Martina Navratilova, Yao Ming - thường xin nhận nước Mỹ làm quê hương. Kim Dung cho Vi Tiểu Bảo là một nhà chuyên nghiệp. Dù đó, một chuyên gia chợ trời. Ở chỗ Vi Tiểu Bảo là con của một người đàn bà mang nghiệp chuyên gia xưa cũ nhất lịch sử nhân loại. Con vua thì được làm vua – con người kỹ nữ phải là thằng điếm chuyên nghiệp. Bởi Vi Tiểu Bảo một nhà chuyên nghiệp, y có thể xuyên qua hết những bức thành trì kiên cố của giá trị cổ truyền. Y muốn phục vụ ai thì phục vụ. Không cần để ý tới khách hàng hoặc người y phục vụ. Miễn y không làm suy giảm tìềm năng, tài nguyên, tài sản của đất nước và làm phương hại đến nhân dân. Vi Tiểu Bảo đã thoả mãn những yêu cầu đó và lại còn vinh danh được vai trò của chuyên gia.

Ở sự ví von chuyên gia này, ta thấy tầm nhìn của Kim Dung vào năm 1972 đã phóng thật xa. Bởi vào đầu thế kỷ 21, ngay những người được xem là “anh hùng” dân tộc như Russell Coutts và Brad Butterworth của Tân Tây Lan trong cuộc đua thuyền America’s Cup, vào năm 2003 đã bỏ Tân Tây Lan nhảy sang làm việc cho thuyền đoàn của Thụy Sĩ, chỉ bởi Thụy Sĩ trả lương họ gấp đôi lương kiếm được tại Tân Tây Lan.

Người dịch Cao Tự Thanh hiện nổi tiếng như cồn tại Việt Nam. Bản dịch của Cao có rất nhiều chú thích giúp người đọc am tường vấn đề hơn. Những chú thích đó thường cho biết chi tiết nào có vẻ hư cấu chi tiết nào đúng với lịch sử. Hành văn cũng rất dễ đọc. Duy có điểm, một số các từ và thành ngữ, chơi chữ phải giữ nguyên tiếng Hán mới tôn trọng được tính chất . . . kiếm hiệp của Kim Dung. Nhiều lối chơi chữ chính dịch giả phải thú nhận bó tay trong phần ghi chú. Một sơ sót rất nhỏ, tác giả dịch thẳng theo tiếng và âm Tàu Russia thành La Sát. Người đọc dễ thấy chới với không ít bởi không biết La Sát là nước nào mà to lớn dữ vậy. Ðến xong vài quyển rồi mới có một ghi chú nhỏ nói đó chính là nước Nga. Âm R không có trong tiếng Hán và tiếng Nôm khi xưa, và vẫn không có trong tiếng Quảng Ðông cho đến ngày nay. R đọc thành L. Russia Tàu phiên âm thành La Sát.

Nếu hỏi trong mười mấy bộ tiểu thuyết, Kim Dung đã dồn hết mười thành công lực vào bộ tiểu thuyết nào để nhằm đưa ông lên tột đỉnh của sự nghiệp. Câu trả lời chắc chắn là bộ Lộc Ðỉnh Ký. 

Lý do dễ hiểu. Lộc Ðỉnh Ký không phải đơn thuần là một tiểu thuyết võ hiệp. Như người dịch Cao Tự Thanh đã viết, nhân vật chính không biết ‘võ’ mà cũng chẳng ‘hiệp’ gì. Lộc Ðỉnh Ký có lẽ là một tổng hợp lớn của đề luận về ước mơ của tuổi trẻ, của con người thời tao loạn, của tâm lý phái nữ, dục vọng con người, của chính trị, tranh chấp chủng tộc và văn hoá, của chiến tranh và bang giao quốc tế, của những ám ảnh về “tiểu bảo” tức thằng nhỏ, về sex, về vấn đề tranh sống hoặc tìm chỗ đứng trong xã hội, trong lịch sử của con người. Của chuyện lớn, triều đình - chính trị, được vận hành thành công bởi con người nhỏ, nhỏ tuổi (Tiểu Bảo và Khang Hy). Của chuyện nhỏ (thằng nhỏ) xít ra chuyện lớn (Cắt thằng nhỏ Ngô Ứng Hùng đưa đến chuyện Ngô Tam Quế làm phản một lần nữa / Vi Tiểu Bảo, người nhỏ, ăn nằm và nên duyên vợ chồng với những người đàn bà chức lớn, lớn tuổi / Từ cuộc tình nhỏ của Sophia và Bảo đến bang giao hai nước Nga-Hoa). 

Lộc Ðỉnh Ký còn đưa ra một luận đề chính nữa, theo lý giải bút hiệu Kim Dung của chính tác giả, nhằm dung hoà hệ thống giá trị cổ truyền của Trung Hoa với những gì hay ho, hiện đại của phương Tây. Chính sự dung hoà Ðông và Tây này có thể tác động cho việc mưu cầu tự do và hạnh phúc cuộc đời. Thế, Kim Dung có đặt câu hỏi dân chủ có phải một yếu tố hàng đầu trong mưu cầu tự do hạnh phúc hay không? Có lẽ, không. Và cũng có lẽ, có. Không, ở chỗ nhiều cuộc hội họp và hội nghị toàn quốc giữa các phe chống Thanh thường không đi đến kết quả nào, theo với đa số. Họ chỉ đồng ý nhau trên căn bản kiếm hiệp giang hồ. Và chủ ai nấy giữ. Trung thành mù quáng, không cần biết chủ mình có thật tài, có đức hay không. Phe nào trừ được gian tặc Ngô Tam Quế trước, phe đó sẽ được làm minh chủ. Không, cũng ở chỗ Khang Hy thường quyết định về chuyện quốc gia đại sự một mình. Không có quốc hội gì hết. Và những quyết định của Khang Hy thường rất tốt, rất . . . minh quân. Có, có chút đỉnh, ở chỗ trong nhiều trường hợp, Khang Hy ưa hỏi ý kiến của Vi Tiểu Bảo. Hỏi ý kiến của một người tiêu biểu thuộc Hán tộc, thuộc dân bị trị. Xuất thân từ chốn bần cùng.

Những người mê đọc truyện Tàu thuộc các thế hệ trước thời Kim Dung đều có thể nhớ đến truyện Phong Thần của Hứa Trọng Lâm, viết vào thời Minh. Phong Thần thuật chuyện nổi dậy của vua nước Châu chống lại nhà Thương. Mỗi bên được những đạo sĩ, những võ tướng thần thông cái thế thuộc hai phe đối nghịch nhau phò tá: Xiển giáo và Triệt giáo. Qua những chiến trận phù phép giữa hai bên, các đạo sĩ, võ tướng đều tử trận. Họ trở về cõi Trời và được phong thánh phong thần. Rồi cùng nhau “làm việc” cho Ngọc Hoàng Thượng đế. Cả hai phe đối nghịch nhau cùng làm việc cho một đấng chí tôn – chính là một ý niệm cơ bản của dân chủ theo kiểu Westminster của Anh quốc, hay kiểu nước Nhật ngày nay. Hưá Trọng Lâm có vẻ đã mơ hồ nhận thức được ý niệm này qua pho truyện Phong Thần, vào khoảng thế kỷ 16.

Ở một góc cạnh nào đó, ta có thể thấy Lộc Ðỉnh Ký mang ít nhiều luận đề của Hồng Lâu Mộng và AQ. Nhưng những luận đề đó được viết ngược lại. Viết theo cái nhìn của Kim Dung về các vấn đề nhân sinh và mâu thuẫn giữa những hệ thống giá trị của xã hội. Viết theo một chiều hướng hiện đại và một bối cảnh rộng lớn, quốc tế hơn. Lồng trong những đường gươm lưỡi kiếm và súng đạn. Hồng Lâu Mộng cho một gia đình từ giàu sang đến suy sụp. Lộc Ðỉnh Ký cho một người từ chốn thấp hèn leo đến địa vị giàu sang phú quý. Hồng Lâu Mộng cho người giàu sang giao lạc với mọi a-hoàn trong nhà. Lộc Ðỉnh Ký ngược lại cho một người nghèo hèn đi ngủ với các công chúa, các mỹ nhân của thời đại. Hồng Lâu Mộng và AQ cho nhân vật chính đi trốn nợ đời ở chốn Phật, hay lên đoạn đầu đài để đi về bên kia thế giới. Lộc Ðỉnh Ký cho vai chính hưởng được cuộc đời hạnh phúc ẩn danh trong cõi trần gian.

Xin ghi lại lời của chính Kim Dung (ngày 22 tháng 6, 1981) đăng trong trang cuối bản dịch của Cao Tự Thanh: “Lúc gặp các độc giả gặp nhau lần đầu, câu hỏi mà tôi thường gặp nhất là ‘Ông thích bộ tiểu thuyết nào của mình nhất?’. Câu hỏi này rất khó trả lời, nên tôi thường không trả lời. Còn nếu bàn về ‘mình thích’, thì tôi thích mấy bộ có tình cảm mãnh liệt hơn như ‘Thần Ðiêu Hiệp Lữ, Ỷ thiên Ðồ long Ký, Phi hồ ngoại truyện, Tiếu ngạo giang hồ. Lại thường có người hỏi ‘Theo ông bộ tiểu thuyết nào của mình là hay nhất?’, thì bộ Lộc Ðỉnh Ký này là hay nhất. Có điều rất nhiều độc giả hoàn toàn không đồng ý. Tôi rất thích sự không đồng ý của họ.” 

Trong quyển “Thú Xem Truyện Tàu” [7] Vương Hồng Sển đã viết:

“Như chúng ta đều biết, một tác phẩm văn nghệ muốn trở nên bất hủ, chẳng những phải cống hiến cho loài người những thành thực về phương diện nghệ thuật mà còn phải có tác dụng nhứt định đối với cuộc sống. Nghệ thuật chơn chính phải giúp cho nhơn loại về mặt xã hội và tinh thần để giành lấy được tự do và bình đẳng. Nghệ thuật không gây ảnh hưởng trực tiếp đối với đời sống như chánh trị, triết học, nhưng nhứt định sẽ có ảnh hưởng gián tiếp bằng cách thông qua những lý tưởng và hành động của những nhơn vật điển hình mà nó đã tạo ra trong tác phẩm.

Vì thế, nghệ thuật tuyệt vời là phải tổng hợp và thể hiện cho được cái chân thiện mỹ đó làm cơ sở, hơn thế nữa, làm mục tiêu cao nhất mà nghệ thuật mình phải đạt tới.” 

Với Lộc Ðỉnh Ký, Kim Dung đã đạt đến nghệ thuật tuyệt vời đó.


_________
Ghi Chú

[4] Một nhóm Thiên Ðịa Hội di tản sang Việt Nam và lâu ngày hội nhập vào xã hội Việt, mang chiêu bài chống thực dân Pháp. Phan Xích Long, một người tự xưng con cháu vua Hàm Nghi, gây được ủng hộ của Thiên Ðịa Hội tức Nghĩa Hoà Ðoàn, nổi dậy chống Pháp tại Sàigòn vào năm 1913. Cuộc nổi dậy bị quân Pháp nhanh chóng dập tắt.

[5] Xin xem “ Ngũ hành trong Tiếu Ngạo Giang Hồ”

[6] Trước Kim Dung, phim ảnh cũng đã thử sơ sơ áp dụng xen 1 của Hitchcock vào phái Nam: Phim James Bond – Goldfinger. Cảnh James Bond bị Goldfinger bắt trói nằm trên một tấm bàn (thành tố: không cục cựa và trốn chạy được). Sau đó cho tia laser rà vào giữa hai chân (thành tố: không phòng bị bởi lúc đó ít ai biết tia laser ra sao). Và đưa tia laser rà về phía thằng nhỏ của James Bond (thành tố: không có gì che chở - bởi có mặc quần áo giáp tia laser vẫn xuyên qua như thường).

[7] Vương Hồng Sển (1970) Thú Xem truyện Tàu.

[8] Mai Kim Ngọc (1987) Tập Truyện Lỗ Tấn.

[9] Ðỗ Quang Vinh (2003) Bút Thuật của Nguyễn Du trong Ðoạn Trường Tân Thanh.

[10] Trong phim mới Simone do Al Pacino thủ vai một nhà đạo diễn xuống dốc. Tình cờ một người bạn thân trước khi chết cho nhà đạo diễn một chương trình điện toán có thể quay phim một người tài tử, không có thật, sáng tạo bởi máy điện toán. Nữ tài tử ảo này mang tên Simone trở nên nổi tiếng khắp thế giới nhưng không ai có thể biết, gặp và thấy được, bởi Simone một người ảo chỉ xuất hiện được trên TiVi hay phim nhựa mà thôi. Cuối phim – Hollywood đưa ra một châm biếm mới về chính trị gia trong cuộc phỏng vấn trên TiVi với “minh tinh” Simone. Simone tiết lộ “nàng” đang chán ngán nghề diễn xuất và đang chuẩn bị đổi nghề. Nàng muốn nhảy ra . . . chính trường, và có thể có ngày sẽ ứng cử tổng thống.

[11] Ðiển hình là phim loạt: “Người hiệp sĩ đạo và đứa bé trong chiếc xe đẩy”

Nhận xét

Bài đăng phổ biến