Bài 4: VỀ NGHI ÁN BÀI THƠ TIẾNG THU của Lưu Trọng Lư - Nguyễn Nam Trân
VỀ NGHI VẤN XUNG
QUANH BÀI THƠ
TIẾNG THU của Lưu Trọng Lư
............................................................................
Bài 4--------
VỀ NGHI ÁN BÀI THƠ
TIẾNG THU của Lưu Trọng Lư
TIẾNG
THU
Em
không nghe mùa thu
Dưới trăng vàng thổn thức?
Em không nghe rạo rực,
Hình ảnh kẻ chinh phu,
Trong lòng người cô phụ?
Em không nghe rừng thu,
Lá thu kêu xào xạc,
Con nai vàng ngơ ngác,
Đạp trên lá vàng khô?
Dưới trăng vàng thổn thức?
Em không nghe rạo rực,
Hình ảnh kẻ chinh phu,
Trong lòng người cô phụ?
Em không nghe rừng thu,
Lá thu kêu xào xạc,
Con nai vàng ngơ ngác,
Đạp trên lá vàng khô?
Lưu
Trọng Lư
Một
người thân ở Paris, gần đây có viết Mail hỏi tôi xem bài Tiếng Thu (1939) nổi
tiếng của Lưu Trọng Lư (1912-1991) có lấy cảm hứng từ một bài thơ xưa của Nhật
không? Anh ấy đã đọc ở tờ báo Kỷ Nguyên Mới ở Mỹ cho biết nhà văn Nguyễn
Vỹ có lần hỏi bạn ông là Lưu Trọng Lư lúc trước chiến tranh về điều đó. Lưu
Trọng Lư trả lời không là không nhưng Nguyễn Vỹ vẫn chưa hết mối ngờ và đem
theo nó vào tận Sài Gòn .
Thực
tình nếu trí nhớ chưa phản bội tôi thì chính tôi cũng đã có cơ hội đọc điều nầy
trong mục Mình Ơi của báo Phổ Thông do cô Diệu Huyền (một biệt hiệu
của Nguyễn Vỹ) phụ trách. Báo Phổ Thôngthời đó có vài cựu sinh viên Việt
Nam tại Nhật Bản đóng góp khá thường xuyên và được quần chúng, trong số đó có
tôi, khá yêu chuộng và lòng mến mộ nước Nhật của tôi cũng bắt nguồn từ đó. Giai
thoại Tiếng Thu được kể ra qua cuộc đối thoại giữa Ông Tú và Bà Tú. Ông bà Tú
không phải là những nhân vật hư cấu, có chăng là ..cô hàng bán vịt lộn đôi khi
xuất hiện trong đó. Bà Tú là nhân vật có thực ngoài đời, em gái ông Vỹ. Ông
Trần Tú, chồng bà, gốc ngoài Quảng như ông Vỹ, là một người bạn của cha tôi hồi
còn ở Đơn Dương gần Đà Lạt. Một người con của hai ông bà, chị Kim Thoa, là bạn
học với tôi năm lớp nhì tiểu học. Theo nội dung của bài báo trên Phổ
Thông thì Lưu Trọng Lư có thể đã mượn ý của một bài thơ cổ của người Nhật
nhưng qua một bản dịch tiếng Pháp vì ông Lư không biết tiếng Nhật.
Tôi
bèn suy ra thơ cổ của Nhật Bản thì chỉ có tanka và tập thơ tanka căn bản phải
là Kokin Waka-Shuu (Cổ Kim Hòa Ca Tập). Nhân một ngày thứ bảy rỗi
việc, tôi mới ra quán sách trong supermarket ở Tôkyô đọc cọp bản của nhà Chuô
Kôron và tình cờ có thêm một số ít tin tức về bài tanka liên quan xa gần đến
Tiếng Thu của Lưu Trọng Lư.
Trước
hết phải nói là những thông tin của Nguyễn Vỹ rất chính xác vì ông có chua âm
Nhật của bài thơ bên cạnh bài báo xuất bản ở Mỹ mà người thân của tôi ở Paris
đã đọc.
Nguyên
tác :
Okuyama
ni (Trong núi sâu) (5)
Momiji fumiwake (Đạp lên lá phong đỏ rẽ lối đi) (7)
Naku shika no (Của nai kêu) (5)
Koe kiku toki zo (Chính là khi nghe tiếng) (7)
Aki ga kanashiki (Mùa thu buồn làm sao) (7)
Momiji fumiwake (Đạp lên lá phong đỏ rẽ lối đi) (7)
Naku shika no (Của nai kêu) (5)
Koe kiku toki zo (Chính là khi nghe tiếng) (7)
Aki ga kanashiki (Mùa thu buồn làm sao) (7)
Chúng
ta đều biết người Nhật thích thể thơ 5 chữ 7 chữ như Việt Nam thích 6,8. Những
bài hát Nhật ăn tiền bây giờ cũng theo thể 5,7. Đọc thơ Nhật như bài nầy thì
nên đi ngược từ câu cuối thì mới rõ nghĩa.
Vâng,
bài nầy đã tìm thấy trong phần Thu Ca của tập Kokin Waka Shuu (Cổ Kim
Hòa Ca Tập), một tuyển tập thơ quốc âm Tanka (Đoản Ca) của Nhật. Vào đầu thời
Hei-an, văn chương chữ Hán chiếm địa vị độc tôn và thơ quốc âm Waka bị đẩy lùi
vào bóng tối. Thế nhưng, Waka không vì thế mà mai một hẳn, nó chỉ trở thành một
hình thức thơ để tỏ tình cảm riêng tư, sinh hoạt luyến ái nam nữ hay tình tự
dân gian. Tập Kokin Waka Shuu (Cổ Kim Hòa Ca Tập) là tập thơ quốc âm
đầu tiên đã được soạn để tiến lên vua theo sắc chiếu, còn được lược xưng
là Kokin Shuu (Cổ Kim Tập). Do bọn các ông Ki-no-Tsurayuki (Kỷ, Quán
Chi), Ki-no-Tomonori (Kỷ, Hữu Trắc), Ôshikôchi-no-Mitsune (Phàm Hà Nội, Cung
Hằng), Mibu-no-Tadamine (Nhiệm Sinh, Trung Lĩnh) soạn khoảng năm Engi (Diên Hỷ)
thứ 5 (905) theo sắc lệnh của thiên hoàng (thứ 60) Daigô (Đề Hồ, trị vì
897-930). Đây là tập thi tuyển Waka đầu tiên được soạn theo chiếu chỉ và là qui
phạm cho những tập soạn theo chiếu chỉ các đời sau.Thi tập nầy gồm 12 quyển,
thu thập ước chừng trên 1100 bài thơ, có kèm hai bài tựa (Jo), một viết bằng
Kana (tức bài Kanajo) do Ki-no-Tsurayuki và bài kia bằng chữ Hán (Manajo) do
Ki-no-Yoshimochi (Kỷ, Thục Vọng) viết. Đặc biệt trong bài tựa viết bằng Kana,
không những thuyết về sự hoà điệu giữa cái Tâm và thi Từ mà còn chủ trương về
vai trò đối đầu của Waka với thơ chữ Hán, nói lên được ý thức dân tộc của người
soạn ra nó.
Kokin
Waka Shuu chia thành nhiều bộ (bộ lập=budate) tùy theo chủ đề: Xuân
(thượng, hạ), Hạ, Thu (thượng, hạ), Đông, Hạ (chúc tụng), Ly Biệt, Ki Lữ (lữ
hành), Vật Danh, Luyến (Tình Yêu), Ai Thương, Tạp (thượng, hạ), Tạp Thể
(thượng, hạ) Đại Ca Sở ngự ca.Về thể điệu, phần lớn là những bài ngắn (Tanka),
có một ít bài dài (Chôka hay Naga-uta) và thơ đối đáp (Sedôka).
Như
đã nói, bài thơ chúng ta đang bàn đến có chép trong phần chủ đề về mùa thu (Thu
Ca). Về tác giả, sách cho biết "không biết là ai" nhưng chua thêm
"Trong tập Hyakunin Isshuu (Bách Nhân Nhất Thủ, tức một tập chọn
mỗi người nổi tiếng một bài ) thì bảo tác giả là Sarumaru Dayu (Viên Hoàn Đại
Phu) một nhân vật truyền thuyết có tên trong 36 nhà thơ thời cổ (Tam Thập Lục
Ca Tiên) đã soạn".
Hyakunin
Isshuu được nhiều người cho là công trình biên soạn của Fujiwara Sadaie
(còn đọc là Teika, tức Đằng Nguyên Định Gia) vào khoảng năm 1235 và thơ dựa
trên Hyakunin Shuuka (Bách Nhân Tú Ca) tức thơ hay của trăm nhà mà
ông đã chọn để viết trên giấy họa để trang trí dinh thự một vương
hầu. Hyakunin Isshu (quen gọi tắt là Hyakuninshu) chọn của 100
tác giả mỗi người một bài thơ và lấy những bài đó ở các thi tập soạn theo sắc
chiếu, tính từ Kokin-Waka-Shuu (Cổ Kim Hòa Ca Tập) cho
đến Shoku-Gosen-Shuu (Tục-Hậu Tuyển Tập). Những bài thơ trong tập
sách nầy đều đặc sắc nên được truyền bá rộng rãi về sau dưới mọi hình thức nghệ
thuật. Chẳng hạn vào đầu thời Edo, có trò chơi Utagaruta (Ca Gia Lưu Đa) tức
trò chơi "ai nhanh tay" bốc những quân bài ( Uta=thơ ca; karuta =
Carte ) có in câu dưới của bài thơ trong Hyakunin Isshu là thắng
cuộc. Người Nhật hầu như ai cũng biết bài (tạm gọi là) Thu Ca nầy vì nó có trên
một trong 100 quân bài của trò chơi đó. Khi giám khảo ngâm câu trên
trong yomifuda tức quân bài để đọc thì phải biết mà bốc quân bài có
ghi câu dưới trong torifuda tức là quân để bốc. Đây là một trò chơi
tao nhã rất phổ biến trong quần chúng vào dịp Tết nhất cho đến tận giờ.
Sách
đã dẫn (Kokin Waka Shuu, bản Chuô Kôron) cho rằng câu đầu và câu thứ hai không
xác định nai hay là người đạp trên lá (đỏ chứ không phải vàng vì Momiji chữ Hán
viết là Hồng Diệp tức là lá màu đỏ của cây phong vào thu). Có lẽ là cả hai
nhưng cái mơ hồ đó làm tăng thi vị. Hơn nữa, nai của ông Lư nên thơ hơn vì
không kêu để gọi nai cái (hay gọi đàn) như nai Nhật mà chỉ im lặng, ngơ ngác
đạp lá vàng khô.
Không
riêng Lưu Trọng Lư, Huy Cận cũng đã viết:
Nai
con gót lẩn trong mù,
Xuống rừng nẻo thuộc nhìn thu mới về.
Xuống rừng nẻo thuộc nhìn thu mới về.
Nai
và mùa thu là một chủ đề thường thấy trong tập Kokin Waka-Shuu nầy
nhưng bên Tàu thời ấy (Đường) cũng có những bài thi vị dính líu xa gần với nai
và núi vắng như Lộc Sài của Vương Duy :
Không
sơn bất kiến nhân
Đản văn nhân ngữ hưởng
Phản cảnh nhập thâm lâm
Phục chiếu thanh đài thượng
Đản văn nhân ngữ hưởng
Phản cảnh nhập thâm lâm
Phục chiếu thanh đài thượng
Theo
người thân tôi ở Paris cho biết thì sau khi nghe Nguyễn Vỹ "kết tội",
Lưu Trọng Lư đã giẫy nẩy lên "Nhưng bài thơ tao còn có chinh phu, cô phụ
kia mà" vv...Người bạn Paris cho biết thêm là một thân nhân của ông Lư bảo
rằng ông ta làm bài thơ nói trên sau khi xem một bức sơn mài có cảnh nai ở
trong rừng. Ngoài ra, theo nguồn tin thân cận khác, nhà phê bình văn học Đặng
Tiến nói ông Lư đã chịu ảnh hưởng Thu Thanh Phú của Âu Dương Tu. Điều này làm
tôi tự hỏi phải chăng một bài thơ thu rất hay của một nhà thơ triều Nguyễn là
Thu Dạ Lữ Hoài Ngâm của cụ Đinh Nhật Thận, còn có thể là gạch nối giữa Âu Dương
Tu và Lưu Trọng Lư chăng ? Vẫn người thân của tôi ở Paris lại nhắc đến Chanson
d'Automne, một tác phẩm trứ danh của Pháp mà ai cũng nằm lòng từ lúc ngồi trên
ghế trường trung học.Thơ viết về mùa thu nhiều lắm. Thế thì, ông Lư sanh sau đẻ
muộn nầy lấy cảm hứng ở đâu để viết Tiếng Thu đây ?
Khi
tôi có dịp may gặp nhà thơ Xuân Diệu ở Paris một vài năm trước khi ông mất và
có hỏi: Thế bác viết:
Tuổi
học trời xa, Huế cũng đi,
Mấy bài thơ cũ thật tiên tri.
Bạn vàng thuở trước nên ông cả,
Gái nhỏ khi nao thoắt dậy thì.
Mấy bài thơ cũ thật tiên tri.
Bạn vàng thuở trước nên ông cả,
Gái nhỏ khi nao thoắt dậy thì.
Có
lấy cảm hứng từ hai câu:
Đồng
học thiếu niên đa bất tiện
Ngũ Lăng cừu mã tự khinh phì
Ngũ Lăng cừu mã tự khinh phì
không
? (vì Xuân Diệu rất sành thơ Đường: con ông đồ Nghệ, đã viết những bài như Nhị
Hồ, đã dịch và vác ba lô đi nói chuyện về thơ Đường khắp nơi) thì được ông trả
lời "Không. Có thể đó là cái hồn thơ nho nhỏ của "thằng" Xuân
Diệu đã gặp được cái hồn thơ vĩ đại của cụ Đỗ Phủ ở chỗ nào đó thôi".
Cho
nên chuyện ông Lưu Trọng Lư có biết bài thơ Nhật kia không thì không quan
trọng. Trước hết ông Lư có đủ tài để làm thơ hay như khi ông viết về mùa hạ (?):
Tôi
nhớ mẹ tôi thuở thiếu thời,
Lúc người con sống tôi lên mười.
Mỗi lần nắng mới gieo ngoài nội,
Áo đỏ người đem trước dậu phơi.
Lúc người con sống tôi lên mười.
Mỗi lần nắng mới gieo ngoài nội,
Áo đỏ người đem trước dậu phơi.
Hay
mùa đông :
Em
chỉ là người em gái thôi,
Người em sầu mộng của muôn đời
Tình em như tuyết giăng đầu núi,
Vằng vặc muôn thu nét tuyệt vời.
Người em sầu mộng của muôn đời
Tình em như tuyết giăng đầu núi,
Vằng vặc muôn thu nét tuyệt vời.
thì
có gì mà chẳng làm được một bài thơ hay về mùa thu, cũng hay như Vần Thơ Sầu
Rụng nói về mùa xuân với “những ngày lạnh rớt gió vèo trong cây".
Cái
quan trọng ở đây là ông Lư đã đẻ ra được cái hình ảnh "con nai
vàng ngơ ngác ". Nếu ông lấy cảm hứng từ thơ Nhật thì thi nhân
Waka nào đó còn phải cảm ơn Lưu Trọng Lư nữa, vì dù có mô phỏng cổ nhân, ông đã
đưa hồn thơ Nhật Bản đến cho người Việt Nam. Cũng như Nguyễn Khuyến đã đem Thu
Hứng của Đỗ Phủ vào thơ Việt khéo đến nỗi người ta khó lập ra quan hệ
"liên văn bản" giữa:
Mấy
chùm trước dậu hoa năm ngoái (Nguyễn Khuyến)
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ (Đỗ Phủ)
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ (Đỗ Phủ)
Phải
tinh ý lắm mới nhận ra. Hơn nữa, ông Lư cũng đã đem vào bài thơ nầy một chủ đề
mùa thu khác như mùa thu của chờ mong thường thấy trong văn học Trung Hoa, Việt
Nam và cả Nhật Bản (rạo rực, chinh phu, cô phụ) như ông đã nói rất đúng. Ngoài
ra, cái độc đáo của ông là lối đặt câu hỏi (không nghe?), tiếng động mùa thu
(thổn thức, xào xạc) như tiếng thu mà Âu Dương Tu, văn nhân đời Tống đã bắt gặp
giữa một đêm mất ngủ trong Thu Thanh Phú, hay linh hồn réo rắt của làn gió thu
nghe như tiếng vĩ cầm trong Chanson de Automne của
Paul Verlaine (1844-1896):
Les
sangots longs
Des violons
De l'automne
Blessent mon coeur
D'une langueur monotone...
Des violons
De l'automne
Blessent mon coeur
D'une langueur monotone...
Chưa
hết.
Tôi
nghĩ mùa thu đã nhập vào hồn thơ nhân loại. Thi ca toàn cầu hóa trước khi kinh
tế bắt đầu vượt biên giới quốc gia. Mới đây, tôi lại thấy người Trung Quốc dịch
bài Waka chủ đề Thu Ca nầy sang tiếng Trung và một giáo sư Nhật Bản dịch thơ
Lưu Trọng Lư sang tiếng Nhật. Vậy xin chép lại cả hai bài thơ dịch để quý độc
giả thưởng thức.
Bài
Waka dịch ra tiếng Trung với nhan đề Thâm Sơn Hồng Diệp, Đàn Khả dịch (Nhật Bản
Cổ Thi Nhất Bách Thủ (Riben Gushi Yibai Shou) do nhà Xuất Bản Văn Học
Ngoại Quốc, Bắc Kinh in năm 1985. Theo Đàn Khả, dựa trên bài tựa bằng chữ Hán
của Kokin Shuu do Ki no Yoshimochi (Kỷ Thục Vọng), bài thơ nầy do
Ôtomo no Kuronushi (Đại Hữu Hắc Chủ), thi nhân khoảng tiền bán thời Heian
(794-1188) viết theo một bài thơ trước đó của Sarumaru Dayu (Viên Hoàn Đại
Phu), như đã nói trên, là một nhân vật chưa chắc đã có thực:
Thâm
sơn hồng diệp mãn địa phiêu
Túc đạp hồng diệp lộ điều điều
Văn đạo lộc minh thanh ai khổ
Bi cảm phong hàn thu khí cao
Túc đạp hồng diệp lộ điều điều
Văn đạo lộc minh thanh ai khổ
Bi cảm phong hàn thu khí cao
Núi sâu lá đỏ rụng đầy
Chân khua xác lá dặm dài về đâu
Nai kêu ai oán gieo sầu
Hơi thu lạnh buốt tầng cao ngập lòng
(Nguyễn Nam Trân dịch)
Dịch
giả giải thích đây là tâm sự của một người đang ở giữa đường đời, như đứng giữa
rừng sâu lá đỏ, dưới trời thu lạnh lẽo, tiền lộ mịt mùng, lạc lõng không biết
về đâu.Theo lối dịch nầy, chỉ có người đạp trên lá đỏ và chỉ nghe tiếng nai
vọng đến từ xa. Lối dịch thế nầy không trung thành với nguyên tác cho lắm,
nhưng xem ra cũng có một thi vị riêng.
Ngoài
ra, vào một buổi chiều trong thư viện, tôi nhân tò mò đọc vài trang của quyển
sách nhan đề Lối Vào Văn Học Đông Nam Á (Tônan-Azia Bungaku no
Shôtai, Sei-unsha, Tôkyo, 2001), thấy trong phần thi văn Việt Nam, giáo sư
Kawaguchi Ken-ichi đã dịch Tiếng Thu của Lưu Trọng Lư ra Nhật Ngữ như sau:
Urumu tsuki no shita ni
Kimi wa kikazuya
Susurinaite iru aki wo
Ura wakitsuma no kokoro ni
Kimi wa kikazuya
Senjô ni yukishi otto no omokage e no
Yamigataki omoi wo
Aki no mori ni
Kimi wa kikazuya
Samayou shika ga kareba wo fumu
Sono kasokeki oto wo
(Aki no oto)
Kimi wa kikazuya
Susurinaite iru aki wo
Ura wakitsuma no kokoro ni
Kimi wa kikazuya
Senjô ni yukishi otto no omokage e no
Yamigataki omoi wo
Aki no mori ni
Kimi wa kikazuya
Samayou shika ga kareba wo fumu
Sono kasokeki oto wo
(Aki no oto)
Tuy
bản dịch chưa đạt như ý chúng ta muốn nhưng phải nói ông giáo Nhật nầy là người
có trình độ và phải rõ về cả hai nền văn học vì ít nhất ông là giáo sư Việt Ngữ
Đại Học Ngoại Ngữ Đông Kinh, chuyên gia văn học. Thế mà chẳng nghe ông gợi ra
một câu hỏi nhỏ về khả năng của nguồn cội Waka bài Tiếng Thu khi ông dịch nó
qua tiếng nước ông. Điều đó chứng tỏ Lưu Trọng Lư, nói dại là có chịu ảnh hưởng
bài Waka chăng nữa, đã thành công vì "che mắt" được cả giáo sư văn
chương kia.
Để
kết luận, tuy phân tích của Nguyễn Vỹ rất cần cho nghiên cứu văn học nhất là văn
học đối chiếu nhưng nếu thế, lập luận của ông cần phải có thêm chứng cứ có tính
khoa học và khách quan hơn, nhất là khi luận điểm đó đã bị chính tác giả phủ
nhận. Riêng ở cương vị một người thưởng thức, tôi lại muốn đồng ý với Xuân Diệu
khi họ Ngô viết (lâu ngày quên đích xác thế nào):
Ai
đem phân-chất một mùi hương
Hay bản cầm ca! Tôi chỉ thương,
Chỉ lặng chuồi theo giòng cảm xúc,
Như thuyền ngư phủ lạc trong sương.
Hay bản cầm ca! Tôi chỉ thương,
Chỉ lặng chuồi theo giòng cảm xúc,
Như thuyền ngư phủ lạc trong sương.
mà
tôi nghĩ thích hợp cho bài Tiếng Thu nầy.
NGUYỄN
NAM TRÂN
Tôkyô, 4/2004, một ngày nắng nhưng nhiều gió
Nhận xét
Đăng nhận xét