THƠ ỒN ÀO, THƠ NHẢY CÓC, THƠ RỐI RẮM
THƠ ỒN ÀO
THƠ NHẢY CÓC
THƠ RỐI RẮM
Chẳng
phải ngẫu nhiên mà nhà thơ tài danh Chế Lan Viên, sau những từng trải, chiêm
nghiệm về cuộc sống và thi ca đã viết: Nhân loại đi xa chớ có vẽ bày/ Từ
ngữ kềnh càng, văn chương vô lối/ Cả đời anh, anh thu nhỏ lại/ Chỉ còn cái lõi/
Cho nhân loại mang cùng, nhân loại cầm tay (Thơ cầm tay). Như vậy, thơ
trong vai trò thể hiện và truyền dẫn cảm xúc, suy ngẫm từ người viết đến bạn
đọc rất cần sự cô đọng, sâu lắng. Chọn lọc hình ảnh, chi tiết và ngôn từ là
công việc của sáng tạo thơ. Cái lõi của thơ là tâm hồn cuộc sống, là tình cảm
con người, càng cô đúc, càng đa nghĩa, càng dồn nén, càng ám ảnh.
Khác
mọi thể loại văn học, thơ đòi hỏi rất nhiều sự tiết chế, tiết kiệm hình ảnh và
ngôn ngữ. Đến bút ký, người cao tay cũng không bao giờ làm cái việc thấy gì kể
nấy, sao chép hiện thực một cách thật thà chứ nói gì đến thơ, một thể loại rất
cần tới sự Phóng khoáng nhưng không vu vơ (Chí phóng nhi bất vu). Thơ hay, mang
trong nó vẻ đẹp tự nhiên và những lao tâm khổ tứ của người sáng tác song hầu
như không để lại dấu vết gì. Ngoảnh lại quá khứ, tôi thấy bao nhiêu gợi mở từ
những câu thơ giản dị mà luôn tươi mới như thế này: Đêm Hà Nội buốt tê/
Mái buồn nghe sấu rụng… (Đêm Hà Nội 1950-Chính Hữu); Tôi thấy xứ Đoài
mây trắng lắm/ Em có bao giờ em nhớ thương (Đôi mắt người Sơn Tây-Quang
Dũng); Mũi hài cũ rêu in ngón lạnh (Về lại Xứ Đoài-Thu Bồn); Mùi
mưa xưa/ lòng chưa tạnh/ phố nhau đầu (Chiều Bích Câu-Lê Đạt); Phố
này đêm ấy có trăng/ Cùng đi một quãng nói bằng lặng im (Hà Nội vắng em-Tế
Hanh)…
Tôi
cũng chịu khó đọc thơ. Thơ bạn bè, thơ người mình biết, thơ tác giả mới và cả
thơ được giải thưởng. Tuy vẫn canh cánh một điều: Thơ được giải nhiều khi chỉ
phản ánh xu hướng sáng tác, “gu” thơ hay “thỏa hiệp” của ban giám khảo, hội
đồng ấy và không thể không tính đến chuyện điểm cộng thêm của cánh vế, quen
biết, gửi gắm này nọ.
Tự
hỏi: Có phải bây giờ người ta đang cổ súy, nâng đỡ cho dạng thơ ồn ào, thơ nhảy
cóc và thơ rối rắm?
Tôi
nhận ra sự lặp lại, mòn cũ và ồn ào trong một số bài thơ viết về đất nước hiện
nay. Ít lắm những sáng tạo mới mẻ về cấu trúc, hình tượng, ngôn từ. Thơ nghiêng
về sự ầm ào, cao giọng, tuyên truyền cổ vũ mà không có những câu hay, những ám
ảnh lâu bền. Thoạt nghe có vẻ mênh mông, hoành tráng nhưng khi đọc kỹ bằng mắt
ta thấy vô vàn sáo rỗng, cũ kỹ… Thơ mang trong nó sự sáng tạo quyết liệt không
lặp lại người đi trước, người cùng thời và cả với cái mình đã có. Thế mới cao
tay, mới xứng đáng được tôn vinh.
Có
người đưa hiện thực vào thơ như “nướng gà cả lông”. Đó là kiểu thấy gì nói nấy,
nghĩ gì viết nấy. Buồn thay, đến văn xuôi người ta cũng không ôm đồm thế. Thơ
cần phải tinh. Tinh trong hình ảnh, ngôn ngữ. Đó là yêu cầu bất di bất dịch của
sáng tác thơ; xưa đã thế, nay cũng thế. Tôi đã đọc những câu thơ này và tự hỏi:
“Đây là thơ hay văn xuôi?”:
- Năm
ấy, tôi đến từ phương xa/ không giấy tờ, không người quen, không nhà không cửa
và tương lai tôi/ tương lai ở trong tay những kẻ bố ráp bắt người đi đánh thuê
cho quân xâm lược…(Thơ tặng chị Ba ở Phan Rang-Lê Văn Ngăn).
- Ngày
ấy, em còn nhớ chăng, nếu không cùng một nỗi lo toan về con cái/ có lẽ chúng ta
đã mỗi người mỗi ngã/ và vết thương/ khó lòng được hàn gắn lại dần dần (Có
thể đến một ngày em đọc những dòng chữ này-Lê Văn Ngăn).
-Cái
kéo. Phích nước. Chiếc bút…/ Dăm tờ giấy trắng/ cạnh biên bản, hình như một
cuộc họp/ có ghi tên chủ tọa, thư ký và đại biểu cấp trên/ “Hôm nay, hồi 17 giờ
30, tại…/ Tổng số: 32/ Vắng: 04, có lý do…”(Nhìn kỹ-Mai Văn Phấn).
-Nhà
ông trưởng thôn bị con đường/ đâm thẳng vào cửa/ Mở sách Lý Số ra xem/ có họa/
Sách còn ghi/ ở mục Nốt ruồi/ trang 267 dòng thứ 3 từ dưới lên/ám chỉ những
người tơ tít, lăng nhăng. (Biết thì sống-Mai Văn Phấn).
- Tôi
mơ thấy em hôm qua, vào khoảng đêm về sáng/ Rúc đầu vào chăn tôi ngủ nán/ Ngoài
trời dần sáng bạch/ Người nhà bảo tôi lười quá/ Chỉ em gái lo tôi ốm (Giấc
mơ- Đỗ Doãn Phương).
- Bất
chợt ngắm các cháu trong gia đình/ Cùng đám trẻ con lâu nhâu hàng xóm/ Chúng đã
biết đi, biết nói từ lâu lắm…/ Cái đầu chúng đã độc lập, ký ức chúng đã hình
thành/ Chúng gọi tôi bằng bác, bằng chú, bằng anh/ Có đứa ôm cổ bá vai hỏi
thăm, có đứa tròn mắt khóc thét (Lũ nhóc con-Đỗ Doãn Phương);
- Chiều
có giới hạn/ thủ đoạn, xảo trá vô hạn/ đêm có giới hạn/ kiểu cọ, vênh váo vô
hạn/ biển có giới hạn/ nông cạn, dốt nát vô hạn…(Một vị trí buổi chiều-Đinh Thị
Như Thúy).
- Lại
ngày hôm qua ngày hôm nay ngày mai/ Chúng ta phải thận trọng chúng ta phải cảnh
giác chúng ta phải tiết kiệm chúng ta phải nêu cao tinh thần trách
nhiệm (Chúng ta đã làm gì trong những ngày cuối cùng mùa hạ?-Đinh Thị Như
Thúy)…
Không
ai khác, chính Chế Lan Viên từ lâu, khi còn sống đã cảnh báo việc đưa vốn sống
vào thơ thế nào cho đúng: “Vốn sống của người viết văn và người làm thơ
phải ngang nhau, nhưng cách làm phải khác nhau. Giống như cùng một thứ nếp cho
ta rượu và bánh chưng”. Thử hỏi, kiểu “nấu” như trên cho ra “bánh chưng” hay là
“rượu” hay là gì?
Đọc
một số bài thơ được cho là “cách tân” tôi thấy tác giả không quan tâm tới tạo
lập tứ và chọn lựa hình ảnh hay sao ấy. Tác phẩm của họ giống quầy hàng xén bày
ra nhiều thứ hàng vụn vặt, màu mè. Từ hình ảnh này nhảy cóc sang hình ảnh khác,
tạo nên sự hỗn độn, rối rắm làm nhọc lòng người đọc. Ví dụ:Những ngọn thác câm
lặng đang đổ xuống rất mạnh/ những đế giày chuẩn bị vỡ tung/ chân tường mở cánh
cửa thoát hiểm/ bụi mưa phùn hay châu chấu bay qua/ cả ngôi nhà lao đi chóng
mặt/ sửng sốt, rã rời khi gặp bình minh (Để nhận ra anh-Mai Văn Phấn)… Đã
có, đang có rồi sẽ có những biện minh và cổ xúy cho cách viết đó. Nhưng tôi mạo
muội cho rằng: Một bài thơ không phải là sự tập hợp các hình ảnh, chi tiết lại
một cách tùy tiện, vô tổ chức. Viết theo kiểu nào, truyền thống hay cách tân thì
thơ cũng cần có sự liên kết, bổ trợ cho nhau giữa các khúc đoạn, hình ảnh. Dù
có rẽ ngang rẽ dọc thì thơ vẫn phải chảy về dòng chính, đó là cái “trục” của
bài. Sự lỏng lẻo rời rạc không tạo ra được mạch thơ xuyên thấu, nó làm mất đi
âm hưởng của cảm xúc vốn được xem là quy luật của thơ. Theo cảm nhận của riêng
tôi, bài Ba khúc niệm của Đỗ Doãn Phương là như thế. Nó như là tập hợp của ba
bài thơ ngắn, riêng lẻ. Nếu tách ra, Khúc 2 là một bài thơ đọc được. Xin dẫn
nguyên văn bài thơ để bạn đọc kiểm chứng: “Ba khúc niệm/ Khúc 1/ Ngài ở
ngay trong ký ức tôi, nhưng tôi không sao nhớ nổi mặt Ngài/ Tôi nhận thấy đâu
đó quanh tôi, Ngài đang tồn tại/ Tâm hồn tôi rối loạn/ Khắp mặt đất chạy rông/
Khúc 2/ Bước chân trượt trên đá sỏi/ Xuống sườn dốc lòng hồ/ Nơi ấy nước nằm
lõa lồ trên đất/ Thèm được biến tan/ Đồi nhả ra những viên đá rắn cứng/ Và làm
đau những đầu lưỡi sóng/ Và làm rách toạc mặt nước/ Chưa thể hóa sương/ Tôi đã
đến và mặt đất nơi đây từ chối/ Tôi như con tôm bật mình trên nền đồi đá sỏi/
Thèm được giấu hơi thở mình trong nước/ Mà tinh thần cứ như vật nhọn cứng nhô
lên/ Khúc 3/ Ngọn lửa nhú lên, hé mắt ra nhìn/ Bốn phía thế gian ập vào nó/
Không một tiếng kêu thét/ Tắt phụt/ Mẫu tro.
Lại
có người đề cao quá mức sự nhục cảm trong thơ. Nhục cảm không lạ với văn
chương. Nó là nhu cầu của con người. Nhưng không phải lúc nào hình ảnh mang
tính dục trong thơ cũng có ý nghĩa tích cực. Những câu thơ như thế này không
vượt lên được hành vi thực tế, kích thích mạnh vào phần “con” của người
ta: Cái lưỡi mềm của anh nơi gan bàn chân em/ Làm thế giới hóa lỏng…(Vi
Thùy Linh). Nói về việc miêu tả cái dục, nó đã “vượt” hẳn câu: Khỏa thân
trong chăn thèm chồng của Linh thời nào. Tôi biết Vi Thùy Linh có nội lực
sáng tác và cũng rất thành thật trong thơ nhưng tôi rất dị ứng với cách diễn
đạt có vẻ khoa trương này: Ngón mềm phá hủy im lặng truyền mãnh liệt trỗi
dậy tế bào/ Cặp chân săn chắc mở thớ đường liên hoàn/ Khối uy lẫm dịu dàng/
Khắc vào em ám tượnghay: Quyến luyến miền mơ ngân dài/ Nhân trắc học buông
hết các thước đo/ Đại yến thị giác định nghĩa lại cái Đẹp/ Cho đôi ta mặc
khải (Môi mùa đông)…
Lối
nói to tát ấy dễ làm khuất lấp thơ, “hiếp đáp” thơ. Thơ cần hướng tới sự trong
trẻo bình dị và xúc động để nhẹ nhàng bước vào tâm hồn người đọc. Không dễ gì
nhử được bạn đọc bằng những hình tượng quái gở hay sự loảng xoảng của ngôn từ
đâu. Một lần đọc cho biết thôi, sau đó người ta sẽ cảnh giác với những kiểu
viết như thế. Ai đó đã nói rằng: Sau khi xơi phải quả dưa bị sâu, họ đủ khôn
ngoan cảnh giác với mọi loại rau…
NGUYỄN HỮU QUÝ
Nhận xét
Đăng nhận xét