THỦ PHÁP

THỦ PHÁP 
1-   Có phải là “mới bịa ra”?
Có lẽ độc giả ĐCLH không chú ý tới dòng chữ nhỏ trong ngoặc đơn, phía dưới câu “Phụng công, thủ pháp, chí công vô tư”. Theo đây, câu này là “Trích thư của Hồ Chủ Tịch gửi Hội nghị Tư pháp toàn quốc tháng 2 năm 1948”.
2 - “Có vẻ ngờ ngợ”, và “ngờ ngợ”
Độc giả ĐCLH “có vẻ ngờ ngợ”, và “ngờ ngợ” là có cơ sở. Bởi “Phụng công thủ pháp” và “Chí công vô tư” vốn là hai câu thành ngữ độc lập, không phải là một câu hoàn chỉnh với hai vế đăng đối. Sở dĩ trong thư gửi Hội nghị Tư pháp toàn quốc, Hồ Chủ Tịch đã dẫn “phụng công, thủ pháp”, lại còn thêm cả “chí công vô tư”, có lẽ muốn dùng câu sau để triển khai, nhấn mạnh, bổ sung thêm ý của câu trước. Nay người ta trích ra, biến thành một câu khẩu hiệu, nên ta cảm thấy có vẻ trúc trắc; ý tứ, ngôn từ trùng lặp (đặc biệt là lặp hai chữ “công”) cũng là điều dễ hiểu.
Về thắc mắc “Tất cả đều công hết thì tình người, quyền con người ở đâu?”. Xin phán đoán rằng, ở đây dụng ý của Hồ Chủ Tịch đề cao nguyên tắc thượng tôn pháp luật. Bởi thế, “tất cả đều công hết” là có cái lí của nó. Mặt khác, về cơ bản thì thượng tôn pháp luật, không vi phạm quyền con người; ngược lại, trong thực tế, phần lớn những vụ việc vì không thượng tôn pháp luật, nên quyền con người mới bị chà đạp. Vụ Toà án huyện Hưng Nguyên - Nghệ An xử bà Lê Thị Dung là một ví dụ điển hình.
3-Nghĩa của “Phụng công, thủ pháp, chí công vô tư
-“Phụng công thủ pháp” 奉公守法, nguyên gốc là câu “Phụng công như pháp 奉公如法, xuất xứ từ Sử kí (Liêm Phả, Lận Tương Như liệt truyện); đại để, việc liên quan đến tố tụng, xét xử (hay việc công nói chung) thì phải tuân thủ theo pháp luật. Chữ “phụng”  trong “phụng công” có nghĩa là phụng hành, tuân theo; “phụng công” có nghĩa là tuân theo phép công.
Đáng chú ý, trong bài “Phụng công, thủ pháp, chí công vô tư”, báo Công lý đã hiểu chữ “phụng” trong “phụng công” nghĩa là tôn thờ, nên đưa ra lời giải thích: “phụng công” nghĩa là tôn thờ lẽ công bằng, tôn thờ công lý…” (congly.vn, ngày 13/4/2012). Cách giải thích này không chính xác.
Trở lại với “phụng công thủ pháp”.
Hán ngữ đại từ điển dẫn “Sử ký”, có câu “Phụng công như pháp, tắc thượng hạ bình, thượng hạ bình tắc quốc cường […] 奉公如法則上下平,上下平則国” , nghĩa là “Phụng công như pháp” thì trên dưới yên ổn; trên dưới yên ổn, thì nước mạnh [...].
Hán ngữ đại từ điển cũng trích vở hí kịch “Bình phong hậu”, của Âu Dương Dư Thiến 歐陽予倩 (1889 - 1962), trong đó có câu “Hội trưởng có mặt hay không có mặt, họ đều là những vị “phụng công thủ pháp”, một li cũng không dám tuỳ tiện” [nguyên văn: 會長在與不在他們各位都是奉公守法絲毫不苟的].
Theo đây, chúng ta hiểu “phụng công thủ pháp”, là thượng tôn pháp luật, người thực thi không bị tác động hay chịu ảnh hưởng của bởi bất cứ điều gì.
-Còn câu Chí công vô tư 至公無私 vốn trong sách Trung kinh, chương Thiên địa thần minh (忠經天地神明) của ông Mã Dung 馬融(79—166thời Đông Hán: “Trung giả, trung dã, chí công vô tư - 忠者,中也至公無私 (Trung chính là không thiên lệch, chí công vô tư). Hiểu theo nghĩa hẹp (lĩnh vực pháp luật) thì câu này có nghĩa là hết sức trung chính, công bằng, không thiên lệch; hiểu theo nghĩa rộng, là hết lòng vì việc chung, không vì quyền lợi riêng.
4- “Thủ pháp” này là “thủ pháp” nào?
Với câu hỏi của độc giả LHH.
Quả tình, hiện nay trong tiếng Việt, “thủ pháp” 手法 thường được hiểu với nghĩa như từ điển của Hoàng Phê giảng là “cách thức để thực hiện một ý định, một mục đích cụ thể nào đó. thủ pháp nhân hoá trong thơ ~ gây cười bằng thủ pháp chơi chữ. Đn: biện pháp, phương pháp”. Ở đây, chữ thủ  (nghĩa gốc là cái tay), có nghĩa là kĩ thuật, kĩ xảo
Còn thủ pháp 守法 trong “Phụng công thủ pháp” 奉公守法, chữ thủ  lại có nghĩa gốc là bảo vệ, giữ gìn; ở đây được hiểu là tuân thủ, tuân theothủ pháp 守法 là giữ và làm đúng theo pháp luật.
Trong Hán tự, với những trường hợp đồng âm, như thủ pháp 手法 (cách thức) và thủ pháp 守法 (tuân theo luật pháp) đã có tự hình để phân biệt. Trong khi với chữ quốc ngữ, phải cần đến ngữ cảnh. Và đôi khi ngay cả căn cứ vào ngữ cảnh, cũng xảy ra những điều hết sức mỉa mai.
Ví dụ, “thủ pháp”, ngoài nghĩa là biện pháp, phương pháp (viết với tự hình 手法); tuân theo pháp luật (viết với tự hình 守法), thì thủ pháp 手法 còn một nghĩa nữa là mưu mô, thủ đoạn, ngón đòn, trò gian tráđối nhân xử thế một cách không chính đáng, mà Hán điển đã giảng và chú tiếng Anh là “trick” [ nguyên văn 手法: 权术待人世的不正当方法 – trick]
Những gì đã và đang xảy ra trong vụ án bà Lê Thị Dung, khiến người ta đặt ra câu hỏi, vậy Toà án huyện Hưng Nguyên đã hiểu “thủ pháp” viết bằng hai chữ 守法 (tuân theo luật pháp),hay thủ pháp 手法, hiểu theo nghĩa âm mưu, thủ đoạn,n ngón đòn, trò gian trá; đối nhân xử thế một cách không chính đáng?
Hoàng Tuấn Công/6/2023


Nhận xét

Bài đăng phổ biến