THỦ PHÁP
THỦ PHÁP
1- Có phải là “mới bịa ra”?2 - “Có vẻ ngờ ngợ”, và “ngờ ngợ”
Độc giả ĐCLH “có vẻ ngờ ngợ”, và “ngờ ngợ” là có cơ sở. Bởi “Phụng công thủ pháp” và “Chí công vô tư” vốn là hai câu thành ngữ độc lập, không phải là một câu hoàn chỉnh với hai vế đăng đối. Sở dĩ trong thư gửi Hội nghị Tư pháp toàn quốc, Hồ Chủ Tịch đã dẫn “phụng công, thủ pháp”, lại còn thêm cả “chí công vô tư”, có lẽ muốn dùng câu sau để triển khai, nhấn mạnh, bổ sung thêm ý của câu trước. Nay người ta trích ra, biến thành một câu khẩu hiệu, nên ta cảm thấy có vẻ trúc trắc; ý tứ, ngôn từ trùng lặp (đặc biệt là lặp hai chữ “công”) cũng là điều dễ hiểu.
Về thắc mắc “Tất cả đều công hết thì tình người, quyền con người ở đâu?”. Xin phán đoán rằng, ở đây dụng ý của Hồ Chủ Tịch đề cao nguyên tắc thượng tôn pháp luật. Bởi thế, “tất cả đều công hết” là có cái lí của nó. Mặt khác, về cơ bản thì thượng tôn pháp luật, không vi phạm quyền con người; ngược lại, trong thực tế, phần lớn những vụ việc vì không thượng tôn pháp luật, nên quyền con người mới bị chà đạp. Vụ Toà án huyện Hưng Nguyên - Nghệ An xử bà Lê Thị Dung là một ví dụ điển hình.
3-Nghĩa của “Phụng công, thủ pháp, chí công vô tư”
-“Phụng công thủ pháp” 奉公守法, nguyên gốc là câu “Phụng công như pháp” 奉公如法, xuất xứ từ Sử kí (Liêm Phả, Lận Tương Như liệt truyện); đại để, việc liên quan đến tố tụng, xét xử (hay việc công nói chung) thì phải tuân thủ theo pháp luật. Chữ “phụng” 奉 trong “phụng công” có nghĩa là phụng hành, tuân theo; “phụng công” có nghĩa là tuân theo phép công.
Hán ngữ đại từ điển dẫn “Sử ký”, có câu “Phụng công như pháp, tắc thượng hạ bình, thượng hạ bình tắc quốc cường […] - 奉公如法則上下平,上下平則国强” , nghĩa là “Phụng công như pháp” thì trên dưới yên ổn; trên dưới yên ổn, thì nước mạnh [...].
-Còn câu Chí công vô tư 至公無私 vốn trong sách Trung kinh, chương Thiên địa thần minh (忠經‧天地神明) của ông Mã Dung 馬融(79—166)thời Đông Hán: “Trung giả, trung dã, chí công vô tư - 忠者,中也, 至公無私 (Trung chính là không thiên lệch, chí công vô tư). Hiểu theo nghĩa hẹp (lĩnh vực pháp luật) thì câu này có nghĩa là hết sức trung chính, công bằng, không thiên lệch; hiểu theo nghĩa rộng, là hết lòng vì việc chung, không vì quyền lợi riêng.
Với câu hỏi của độc giả LHH.
Quả tình, hiện nay trong tiếng Việt, “thủ pháp” 手法 thường được hiểu với nghĩa như từ điển của Hoàng Phê giảng là “cách thức để thực hiện một ý định, một mục đích cụ thể nào đó. thủ pháp nhân hoá trong thơ ~ gây cười bằng thủ pháp chơi chữ. Đn: biện pháp, phương pháp”. Ở đây, chữ thủ 手 (nghĩa gốc là cái tay), có nghĩa là kĩ thuật, kĩ xảo…
Những gì đã và đang xảy ra trong vụ án bà Lê Thị Dung, khiến người ta đặt ra câu hỏi, vậy Toà án huyện Hưng Nguyên đã hiểu “thủ pháp” viết bằng hai chữ 守法 (tuân theo luật pháp),hay thủ pháp 手法, hiểu theo nghĩa âm mưu, thủ đoạn,n ngón đòn, trò gian trá; đối nhân xử thế một cách không chính đáng?
Nhận xét
Đăng nhận xét