HUYÊN THIÊN - HUYÊN THUYÊN - LUYÊN THUYÊN, VÀ LIÊN THIÊN
HUYÊN THIÊN - HUYÊN THUYÊN - LUYÊN THUYÊN, VÀ LIÊN THIÊN
Một độc giả thắc mắc: “Tôi thấy hàng ngày mọi người dùng từ “luyên thuyên” rất nhiều. Vậy, xin mục “Cà kê chuyện chữ nghĩa” cho biết chính xác là “huyên thuyên” hay là “luyên thuyên”?Quả tình, trong thực tế không chỉ có “huyên thuyên”, “luyên thuyên”, mà có cả “huyên thiên” và “liên thiên”.
Từ điển từ láy tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ - Hoàng Văn Hành chủ biên) thu thập và giảng: “huyên thuyên. tt. (hoặc đgt.). (Nói năng) nhiều lời và lan man, chưa hết chuyện này đã sang chuyện kia. Nói huyên thuyên. Kể huyên thuyên đủ chuyện”.
Như vậy, theo ghi nhận của Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê) thì “huyên thiên, huyên thuyên xích đế, liên thiên, luyên thuyên” là những từ đồng nghĩa, và đều là những cách viết đúng. Tuy nhiên, xét về nghĩa và cách viết của từ nguyên, nếu gọi là “chính xác”, thì cả “huyên thuyên” và “luyên thuyên” đều là cách nói, cách viết không thực sự chính xác. Bởi huyên thuyên hay luyên thuyên là biến âm của “huyên thiên”, “liên thiên” mà ra, đúng như phụ chú của Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê, bản có chú chữ Hán): “huyên thuyên vốn do huyên thiên 喧天 nói trại”.
Huyên thiên 喧天 là từ ghép chính phụ gốc Hán [xét nghĩa lịch đại]: huyên 喧 nghĩa là ầm ĩ, chỉ âm thanh tạp loạn (như huyên náo 喧鬧); thiên 天 là khoảng không trên trời cao (như thiên không 天空):
-Với Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức, thì “huyên thiên”, ngoài nghĩa “Rùm trời, thao-thao, nhiều mà ít nghĩa: Nói huyên-thiên mà không ai hiểu chi cả”, còn được dùng với nghĩa thông tục là “bộn-bàng, nhiều”, ví dụ “Lúa thóc huyên-thiên, nhà cửa huyên-thiên, tiền bạc huyên-thiên”.
Với từ “liên thiên”, thì Từ điển từ láy tiếng Việt giảng: “liên thiên. tt. (Nói) nhiều, nhằng từ chuyện nọ sang chuyện kia, không đâu vào đâu cả. Nói năng liên thiên”.
Dù được Từ điển từ láy tiếng Việt xếp và diện “từ láy”, nhưng thực ra, xét nghĩa đen [đồng đại], “liên thiên 連篇 là từ ghép chính phụ gốc Hán: liên 連 nghĩa là liên tiếp, nối tiếp (như liên tục 連續; Súng bắng liên thanh; nói liên mồm); thiên 篇 là một phần của cuốn sách có nhiều chương (như đoản thiên tiểu thuyết; thiên thứ nhất, thiên thứ hai…):
Huyên thiên gốc Hán vốn có nghĩa là nói “ầm ĩ, rầm trời”; còn liên thiên vốn “nói thơ văn thiên này nối tiếp với thiên kia”. Từ nghĩa gốc Hán này, nghĩa Việt dụng được tạo nên là “[nói năng] nhiều lời và lan man, chưa hết chuyện này đã sang chuyện kia [đủ thứ chuyện trên trời dưới tất]”. Và, tất cách viết này đều được chấp nhận, được xem là đúng.
HTC
Nhận xét
Đăng nhận xét