Chuyển đến nội dung chính
TRÍ THỨC TẦNG BẬC CAO
TRÍ THỨC TẦNG BẬC CAO
Vương Trung Hiếu
Trí thức là từ Hán Việt, xuất phát từ
hai chữ 智識/知识 trong Hán ngữ.
Theo bách khoa thư Baidu, trí thức có 2 nghĩa: a. Trí tuệ và sự sáng suố t. Ý
này thể hiện trong tác phẩm Hàn Phi tử , thiên Giải lão vào cuối thời Chiến Quốc;
b. Kiến thức, được ghi nhận trong quyển Thư giới đình tạp văn . Bệnh hậu tạp
đàm của Lỗ Tấn.
Ở Trung
Quốc, ý nghĩa của từ trí thức thay đổi theo thời gian. Trong giai đoạn từ
năm 206 TCN cho tới năm 1912 sau khi Chúa Jesu ra đời, trí thức được gọi là sĩ
đại phu (士大夫), tức thuộc thành phần “học giả - quan chức”, những
người thi đỗ trong các kỳ thi của triều đình, được bổ nhiệm làm quan, trong đó
có những nhà thư pháp tài giỏi và triết gia Nho giáo.
Đến thời kỳ Đại cách mạng văn hóa (1966
- 1976), trí thức bị liệt vào thành phần thấp kém, đứng thứ 9 trong xã hội qua
cách gọi miệt thị là “xú lão cửu” (臭老九), một cụm từ xuất
phát từ quyển Cai dư tùng khảo (陔余丛考) của Triệu Dực thời
nhà Thanh, trong đó giới trí thức được xếp sau gái điếm (thứ 8) và trước ăn mày
(thứ 10). Xin lưu ý: vào thời Đại cách mạng văn hóa thì các tầng lớp trong xã hội
có khác thời nhà Thanh và trước đó.
Hiện nay, ở Việt Nam cũng như Trung Quốc,
trí thức được xem là “những người lao động trí óc, có trình độ
hiểu biết tương đối cao, có khả năng tư duy độc lập và tinh thần phản biện, được
phân bố trong các lĩnh vực giáo dục, văn hóa, nghệ
thuật…”.
Cách hiểu trí thức (智識)
ngày nay trong tiếng Trung Quốc có nguồn gốc từ phương Tây, qua thuật ngữ tiếng
Anh là intellectual (tính từ), một chữ xuất hiện khoảng cuối thế kỷ
14 với nghĩa là “nắm bắt bằng sự hiểu biết (hơn là các giác quan)”. Từ intellectual lại
bắt nguồn từ chữ intellectuel trong tiếng Pháp cổ (thế kỷ 13) hoặc có
thể trực tiếp từ chữ intellectualis trong tiếng Latin. Từ năm 1590,
tính từ tiếng Anh intellectual biến thành danh từ với nghĩa là “trí
óc, trí tuệ, sức mạnh trí tuệ”; còn nghĩa “người trí thức” thì được chứng thực
từ năm 1650 song mãi đến đầu thế kỷ 19 mới hình thành nghĩa hiện nay, và được
tìm thấy lần đầu trong bài viết của nhà thơ Lord Byron (năm 1813): “Tôi ước
mình đủ khỏe để lắng nghe những trí thức này”, trích quyển Absent Minds.
Intellectuals in Britain (2006) của Stefan Collini, NXB Oxford University
Press.
Thuật ngữ “giới trí thức” trong tiếng Việt hay
“trí thức phần tử” (知識分子) trong tiếng Trung Quốc đều có nguồn gốc
từ thuật ngữ intelligentsia (tầng lớp trí thức) xuất hiện trong tiếng
Anh năm 1905, một từ xuất phát từ chữ intelligyentsiya (Интеллиге́нция)
trong tiếng Nga và chữ intelligentia trong tiếng Latin, có lẽ thông
qua từ chữ intelligenzia (giới trí thức) trong tiếng Ý.
Tóm lại, có nhiều định nghĩa về trí
thức hoặc giới trí thức, song người viết chưa thấy thế giới phân
loại “trí thức cao - thấp”. Có thể nhận định “đạo diễn là trí thức tầng bậc
cao” như dư luận dậy sóng gần đây, theo kiểu mà giới học thuật gọi là “trí thức
tự phong” (self-styled intellectual), song so sánh với những ngành nghề khác, dễ
hiểu rằng “đạo diễn trí thức hơn bác sĩ, kỹ sư và nhà giáo” là không nên …
Nhận xét
Đăng nhận xét