ĐỂU CÁNG @ CỬU VẠN
ĐỂU CÁNG &CỬU VẠN
Trong tiếng Việt có những
từ chúng ta nghe quen, thậm chí sử dụng thường xuyên, song có thể ta chưa hiểu
hết nghĩa và nguồn gốc.Hệ thống chữ Nôm đã ghi nhận từ “đểu” với 2 cách viết: 搗, 𢞬 và “cáng” (cũng 2 cách viết: 綱, 杭). “Đểu” có nghĩa là người gánh thuê, còn “cáng” là người khiêng cáng hoặc cái cáng (loại võng có mui che, mắc vào 2 đòn do 2 người khiêng hai bên). Ngày xưa, từ “đểu cáng” dùng để chỉ những người phu khiêng. Có quan điểm cho rằng do phần lớn những người phu khiêng (đểu và cáng) ít học, thường giành khách, ăn chia không đều, dẫn đến tình trạng đánh nhau, chửi nhau, thậm chí lừa nhau, để rồi “ngày nay dùng để gọi bọn vô lại” (theo Giúp đọc Nôm và Hán Việt của Anthony Trần Văn Kiệm). Hiện nay, đểu cáng có nghĩa là gian dối, phản phúc, lừa lọc (Wiktionary tiếng Việt). Đây là cách hiểu phổ biến toàn quốc. Từ này đã mất hẳn nghĩa cũ là phu khiêng, vì chẳng còn hình thức chuyên chở kiểu này, ngoại trừ kiểu khiêng cáng cứu thương (loại cáng thường không có mui che)…
Bài tổ tôm có 120 quân, gồm 3 hàng Vạn (萬), Văn (文), Sách (索) viết bằng chữ Nho. Các quân bài có chữ số từ nhất đến cửu. Hàng vạn gồm có 9 quân bài, từ nhất vạn, nhị vạn… cho đến cửu vạn. Quân bài cửu vạn (九萬) này có vẽ hình một người đàn ông đang khuân vác. Từ đó mới có sự liên tưởng người khuân vác thuê là cửu vạn.
AN CHI
Nhận xét
Đăng nhận xét