DẠY THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ CHO HỌC SINH TIỂU HỌC
DẠY THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ
CHO HỌC SINH TIỂU HỌC
Thành ngữ, tục ngữ thuộc bộ phận “ngữ cố định”, cũng là những đơn vị từ
vựng tương đương như từ, cùng với “từ” góp phần tạo nên vốn “từ ngữ” của dân
tộc.
Mới đây, trên một trang báo điện tử [*] có đăng bài “Siêu phẩm
sáng tạo khi học sinh cấp 1 điền thành ngữ khiến cô giáo 'đứng hình'”, đưa ra
nhận xét hài hước, hóm hỉnh về một số bài làm của học sinh tiểu học điền từ còn
thiếu để “hoàn chỉnh thành ngữ”.
Bằng một giọng văn dí dỏm, tác giả hào hứng giới thiệu một số bài làm
sai, gọi là “"tuyệt tác" thành ngữ được học sinh tiểu học sáng
tạo ra”, rồi nhận xét “"trình" văn học hài hước của học
sinh đã được một lớp tiểu học nâng lên tầm cao mới với bài tập "điền hoàn
chỉnh thành ngữ".
Với sự thật thà, ngây ngô và vốn hiểu biết không quá nhiều về các câu
thành ngữ, tục ngữ và đôi khi là cả sự... liếc nhẹ bài nhau, các học sinh này
đã cho ra đời những câu thành ngữ để đời như "Ruột để ngoài tai",
"Môi hở mồm nói", "giấy rách phải giữ lấy để viết"... khiến
cộng đồng mạng không thể nhịn cười.”; “"cây ngay không sợ bóng",
"chân yếu đi chậm",...có lẽ là những câu thành ngữ cực phẩm mà chỉ
những học sinh tiểu học ngây thơ nhưng cũng "nhất quỷ nhì
ma" mới nghĩ ra được.”
Các
"tuyệt tác" thành ngữ được học sinh tiểu học sáng tạo ra (Ảnh:
Infonet)
|
Tra cứu chương trình Tiếng
Việt tiểu học, chúng ta biết bài tập này thuộc chương trình Tiếng Việt
4, bài “Ôn tập giữa học kỳ 1”, với nội dung “Ôn tập về thành ngữ – tục ngữ –
Bồi dưỡng Tiếng Việt lớp 4”.
Một trong những mục tiêu của bài ôn tập là nhằm củng cố lại kiến thức
về thành ngữ, tục ngữ, kiểm tra trí nhớ của học sinh về các câu tục ngữ, thành
ngữ đã học từ đầu năm học đến nay, phân loại các câu theo từng chủ điểm và nắm
chắc lại nội dung, ý nghĩa các tục ngữ, thành ngữ đó.
Cụ thể, ví dụ như câu “Môi hở răng lạnh” thuộc chủ điểm “nhân
hậu” Thương người như thể thương thân, câu “Ước của trái mùa” thuộc chủ
điểm “ước mơ” Trên đôi cánh ước mơ, còn chủ điểm “trung thực” măng mọc
thẳng có các câu về tính trung thực “Thẳng như ruột ngựa”, “Cây ngay không sợ
chết đứng”, giáo dục lòng tự trọng qua câu “Giấy rách phải giữ lấy lề”, v.v.
Các câu thành ngữ trên gồm nhiều loại như thành ngữ đối xứng 4 âm
tiết: môi hở - răng lạnh, chân yếu tay mềm; thành ngữ từ 3 âm tiết trở lên
không đối xứng: thật như đếm, ruột để ngoài da, ước của trái mùa, thẳng
như ruột ngựa, cây ngay không sợ chết đứng, giấy rách phải giữ lấy lề,... là
những đơn vị từ vựng các em đã được học qua các bài mở rộng vốn từ tiếng Việt
từ đầu năm học đến thời điểm đó.
Yêu cầu của bài ôn tập đặt ra khá cao: “học sinh nhắc lại các câu
thành ngữ và tục ngữ, đồng thời giải nghĩa các câu đó”, “học sinh nhớ lại và
nêu được các câu tục ngữ - thành ngữ đã học - yêu cầu học sinh nêu được các câu
đó khuyên chúng ta điều gì? chê chúng ta điều gì?”.
Trong lúc đó, yêu cầu của bài tập (được dẫn ra trong bài báo) đã được
hạ thấp bớt đi khá nhiều, chỉ yêu cầu các em điền từ còn thiếu vào chỗ trống để
“hoàn chỉnh các thành ngữ và đặt câu với một thành ngữ đã hoàn chỉnh”.
Thế nhưng các bài làm “khiến cộng đồng mạng không thể nhịn cười” ấy đã
không đạt được yêu cầu bài làm đặt ra – dù đã được hạ thấp như trên.
Qua các bài làm trên, có thể thấy nhiều em không nhớ chút gì về các
thành ngữ đã học trước đó khi tái hiện lại kiến thức để điền từ vào chỗ trống,
hoàn chỉnh các thành ngữ, mà tùy tiện điền vào chỗ khuyết những từ ngữ mà các
em suy luận nhận thấy hợp logic mà thôi, như “thẳng như thước”, “ruột để tiêu
hóa”, “môi hở hàm ếch”, “chân yếu sẽ không đi được”, “cây ngay không sợ gió
to”, “giấy rách phải giữ lấy sách”, v.v.
Các câu trả lời trên tuy có phù hợp với logic thực tiễn, nhưng lại sai
vì chưa đáp ứng được yêu cầu của bài tập “hoàn chỉnh thành ngữ”.
Qua kết quả các bài làm trên của học sinh lớp 4, từ góc nhìn của người
dạy học, có lẽ không mấy thầy cô thấy vui vẻ, hài hước, “không nhịn được cười”.
Điều làm cho chúng ta phải suy ngẫm, day dứt trước kết quả này là
nguyên nhân nào khiến các em lại làm bài chưa đúng với yêu cầu như vậy?
Chúng tôi không đồng tình với nhận xét của bài báo đã nêu trên: các câu
trả lời của các em “là những câu thành ngữ cực phẩm mà chỉ những học sinh
tiểu học ngây thơ nhưng cũng “nhất quỷ nhì ma” mới nghĩ ra được”, nghĩa là
do học sinh ngây thơ và nghịch ngợm nên đã cố tình có chủ ý trả lời trong bài
làm như vậy (!?).
Theo chúng tôi, nguyên nhân chủ yếu là do học sinh chưa được khắc sâu
kiến thức lúc học bài mới trước đó, nên học trước quên sau, đến khi làm bài thì
không thể nhớ lại các câu thành ngữ đã học để điền từ còn thiếu.
Cạnh đó, những kiến thức chung cơ bản về đặc trưng của đơn vị từ vựng
thành ngữ, tục ngữ chưa được cung cấp cặn kẽ cho học sinh, mà chỉ ở dạng sơ
lược, nên các em chỉ có thể học thuộc lòng từng câu thành ngữ một cách máy móc,
thậm chí chưa kịp hiểu nội dung ý nghĩa của thành ngữ, nên hầu như đa phần các
em không thể vận dụng kiến thức để “đặt câu với thành ngữ” như yêu cầu đặt ra
trong đề bài, tạo nên những câu ngô nghê, vô nghĩa: “Một bạn học sinh lớp em để
cô giáo nhắc nhở ruột để ngoài tai.”, “Em rất thật thà”...
Cuối cùng, thành ngữ, tục ngữ thuộc bộ phận “ngữ cố định”, cũng là
những đơn vị từ vựng tương đương như từ, cùng với “từ” góp phần tạo nên vốn “từ
ngữ” của dân tộc.
Tuy nhiên, hình thức cấu tạo (số lượng âm tiết, cấu trúc nội tại) và
nội dung ngữ nghĩa của “ngữ cố định” có phần phức tạp hơn từ đơn, từ phức, nên
việc cung cấp kiến thức về “ngữ cố định” cho học sinh tiểu học trong kiểu loại
bài “Mở rộng vốn từ theo chủ đề” cần nghiên cứu, xem xét thấu đáo, sao cho
không quá sức, phù hợp đặc điểm tâm lý tiếp nhận của lứa tuổi các em.
Tất cả những suy ngẫm trên, xin được gửi đến các nhà soạn sách giáo
khoa và chương trình mới - sắp được thực hiện từ năm học 2020-2021 - với mong
muốn chương trình và sách giáo khoa mới sẽ phù hợp với đối tượng học sinh, đảm
bảo tính vừa sức và ngày càng được hoàn thiện hơn.
Đỗ Thành Dương
Chú
thích:
[*] //infonet.vn/sieu-pham-sang-tao-khi-hoc-sinh-cap-1-dien-thanh-ngu-khien-co-giao-dung-hinh-post316454.info,(12/10/2019)
Nhận xét
Đăng nhận xét