DÀO và DẦU
DÀO và DẦU
Theo Từ điển Truyện Kiều của Đào Duy Anh thì trong kiệt tác của mình,
Nguyễn Du đã dùng chữ dào ở các câu 238 và 2846 với nghĩa là “dào dạt, tràn trề”.
Câu 238 là “Chưa xong điều nghĩ đã dào mạch Tương”. Đào Duy Anh giảng:
“Dào mạch nước sông Tương, chỉ mối tương tư dào dạt. Theo truyền thuyết, sông
Tương là chỗ vợ vua Thuấn xưa khóc vua Thuấn, người ta nhân điển ấy và nhân đồng
âm với chữ tương nên dùng để tỷ dụ lòng tương tư”.
Đào Duy Anh đã giảng sai. Câu 238 nằm trong đoạn Kiều kể lại cho mẹ
chuyện nàng “gặp” Đạm Tiên lúc chiều và sự lo xa của nàng (Phận con thôi có ra
gì mai sau, câu 234) nên mới dào mạch Tương (nước mắt tuôn trào) chứ ở đây làm
gì có chuyện “tương tư”. Đào Duy Anh cũng sai khi khẳng định vì “đồng âm với chữ
tương nên dùng để tỷ dụ lòng tương tư”.
Thật ra, chữ tương tự nó đâu đủ sức để chuyển tải khái niệm “tương tư”.
Phải đi chung với chữ tư [思] là nhớ thì mới diễn đạt được
chuyện “trồng cây si”, chứ bản thân nó thì còn cặp kè với nhiều chữ khác, trong
đó có cả tương khắc là “xung đột với nhau” nữa.
Mạch Tương xuất phát từ hai chữ Tương lệ [湘淚],
có nghĩa là “nước mắt [khóc ở] sông Tương”. Theo truyền thuyết, vua Thuấn đi tuần
phương Nam, đến vùng Thương Ngô thì chết ở gần sông Tương.
Hai bà phi của vua Thuấn là Nga Hoàng và Nữ Anh hay tin nên đến đó khóc
chồng. Ven bờ sông Tương có rất nhiều tre gọi là “tre sông Tương” (Tương trúc).
Nước mắt xót thương của hai bà chảy thấm thân tre. Từ đó về sau, thân tre sông
Tương đều có đốm, vết tích của những giọt nước mắt đó. Đây dĩ nhiên chỉ là truyền
thuyết.
Câu 2846 được Đào Duy Anh chép là: “Càng âu duyên mới càng dào tình
xưa”. Các nhà chú giải khác cũng đọc chữ thứ 6 của câu này là “dào”, kể cả Nguyễn
Tài Cẩn và Nguyễn Quảng Tuân khi phiên âm Kim Vân Kiều tân truyện do Nam Việt
Gia Định Thành Cư sĩ Duy Minh Thị trùng san. Chúng tôi cho rằng kiểu đọc chữ
này thành “dào” chẳng những không đúng với cách diễn đạt của Nguyễn Du mà còn
mâu thuẫn với tâm lý của nhân vật nữa. Trước đó 9 câu, sau khi biết được Kiều
đã bán mình và bặt vô âm tín thì Kim Trọng đã:
“Thẫn thờ lúc tỉnh lúc mê
Máu theo nước mắt hồn lìa chiêm
bao”.
Thấy thế, Vương Ông sợ quá, bèn “sắm sửa chọn ngày” để se duyên cho
chàng với Thúy Vân. Nhưng lòng thương nhớ Kiều của Kim có bao giờ nguôi: “Vui
này đã cất sầu kia được nào” (câu 2844).
Thế thì tình cảm của Kim ở đây “dạt dào” là dạt dào như thế nào, “tràn
trề” là tràn trề ra làm sao? Nói theo người bình dân Nam kỳ thì, về mối tình đối
với Kiều, Kim Trọng còn “rầu thúi ruột” sau khi cưới Vân nữa, chứ “dạt dào”,
“tràn trề” thế nào được. Ở đây chỉ có chữ dàu mới thích hợp mà thôi. Dàu là “buồn
phiền, ủ rũ, kém tươi vui”, như đã giảng trong Từ điển tiếng Việt của Vietlex
do Hoàng Phê chủ biên. Dàu tình xưa là mòn mỏi vì mải mong chờ người tình xưa
trong vô vọng. Các nhà phiên âm và chú giải “ép” Kim Trọng phải “dạt dào”,
“tràn trề” tình cảm trong hoàn cảnh này thì chẳng tội nghiệp cho chàng ta lắm
ru?
AN CHI
Nhận xét
Đăng nhận xét