QUẤT - QUẬT - TẮC - HẠNH
QUẤT MIẾN BẮC – QUẬT MIỀN TRUNG
TẮC MIỀN NAM – MIỀN TÂY GỌI LÀ HẠNH
Mới đây, trong chuyến công tác
ra phố cổ Hội An, dọc các đường phố ngày giáp tết, chúng tôi thấy có bán nhiều
cây quất cảnh rất đẹp, nhưng đọc biển treo thì lại rất ngạc nhiên khi thấy nhất
loạt tất cả đều ghi là "BÁN QUẬT CẢNH".
Hóa ra ở địa phương này họ gọi
cây quất là cây quật. Trao đổi với một anh bạn quê Đồng Tháp thì được biết ở miền
Tây, cây quất còn có tên gọi khác là cây hạnh.
Trước đây, ngày tết anh thường
chưng cây hạnh với mong ước năm mới gia đình được hạnh phúc viên mãn, nhưng về
sau khi biết cây hạnh còn có tên cây tắc, anh bèn ngay lập tức đổi thói quen
sang chơi cây cảnh tết khác vì e cuộc sống sẽ bị bế tắc, tắc tị cả năm (!?).
Đầu xuân, ngẫm lại thấy trong dịp
Tết Nguyên đán còn có khá nhiều tập quán, kiêng kỵ thú vị trên cơ sở chữ nghĩa
này.
Đầu tiên, món canh khổ qua dân
dã mà người miền Bắc gọi tên nôm na theo dịch nghĩa là mướp đắng, vào trong Nam
bỗng trở thành món quốc hồn quốc túy, không thể thiếu mặt trong mâm cỗ ngày
xuân.
Ấy bởi vì khổ qua là từ Hán Việt
(khổ: đắng; qua: dưa, mướp, bầu bí), được dùng trong ngày tết với ý nghĩa mong
ước ăn khổ qua cho những điều "khổ" bị nuốt trôi, đẩy
"qua", qua đi sự cơ cực, không may, bắt đầu một năm mới tươi sáng.
Cũng do cái sự từ Hán Việt này
mà người miền Nam thường kiêng ăn cam trong ngày tết, vì từ Hán Việt
"cam" (ngọt) trái nghĩa với "khổ" (đắng), lại bị hiểu theo
nghĩa của từ đồng âm: cam chịu, cam phận... đói nghèo khổ cực hoài hoài.
Và lại lo còn bị gắp lửa bỏ tay
người, đổ thừa, đổ tội oan khi liên tưởng đến thành ngữ "Quýt làm cam chịu"!
Thịt vịt cũng là món ăn "bất
hạnh" bị liệt vào danh sách kiêng cữ đầu năm vì theo từ Hán Việt, con vịt
đọc là "áp", mà từ "áp" trong chữ Hán có khá nhiều từ đồng
âm với các nghĩa là: đè nén, áp bức / bị dìm / co rút lại / chen chúc, xô đẩy,
cạnh tranh / cầm cố, thế chấp, mang nợ / bị áp giải...
Nhiều dân nhậu đầu xuân phải kìm
lòng mà quên ngay món khoái khẩu vịt quay (chữ Hán: khảo áp)! Cũng có người đầu
năm nhịn món vịt đơn giản chỉ vì liên tưởng đến dáng đi lặc lè, lạch bạch, chậm
chạp đặc trưng muôn thuở của giống thủy cầm này.
Ngoài ra còn biết bao nhiêu món
ăn vì tên gọi đồng âm với một từ khác, hoặc gợi liên tưởng đến sự... xui xẻo mà
bị "tẩy chay" oan uổng khỏi thực đơn ba ngày tết bảy ngày xuân.
Ví như đầu năm nhiều người kiêng
ăn mực (cá mực) vì sợ cả năm bị "đen như mực"; không ăn cá hố vì sợ bị
"hố", bị "sụp hầm" suốt năm; kiêng ăn "tôm" vì sợ
năm mới mọi sự làm ăn không được hanh thông, phát đạt, cứ đi giật lùi như kiểu
di chuyển của con tôm!
Cữ ăn trứng vịt lộn vì sợ mọi dự
định, kế hoạch làm ăn trong năm mới sẽ bị đảo lộn tùng phèo.
Hoặc con cá mè có tội tình chi
mà đầu năm nhiều người lại kiêng ăn, chả là vì từ "mè" làm liên tưởng
đến từ "mè nheo", sợ cả năm sẽ bị hãm tài vì bị nhây, bị lầy, bị buộc
phải nghe "nói nhiều và dai dẳng để nài xin, phàn nàn hoặc trách móc khiến
người nghe khó chịu"!
Suy cho cùng, những sự ưa chuộng
hay kiêng kỵ này tựu trung cũng đều phản ánh mong ước của con dân nước Việt về
một cuộc sống ấm no, hạnh phúc, sung túc, thuận lợi, may mắn trong năm mới.
ĐỖ THÀNH DƯƠNG
Nhận xét
Đăng nhận xét