KIỂM DUYỆT VĂN HÓA NGHỆ THUẬT
KIỂM DUYỆT VĂN HÓA NGHỆ THUẬT
CÓ HẠN CHẾ SÁNG TẠO?
Để trả lời câu hỏi ở tựa bài viết
này thiết nghĩ cần tới một cuộc trao đổi nghiêm túc và có thể sẽ kéo dài. Bởi lẽ
hiện nay vẫn tồn tại hai khuynh hướng khá rõ rệt: một, để đảm bảo tự do sáng tạo
thì không cần tới kiểm duyệt, cứ để tác phẩm xuất hiện, sai đúng thế nào thì cơ
quan quản lý của nhà nước vẫn còn thời gian để “phạt”, “thu hồi”. Hai, nên/cần
có kiểm duyệt để đảm bảo cái sai, cái xấu không thể lan truyền và gây tác hại.
Nhưng nhìn nhận về cái sai, cái
đúng; cái hay, cái dở của văn hóa nghệ thuật thì vẫn còn có khoảng cách không
nhỏ giữa người giữ vai trò kiểm duyệt với đối tượng kiểm duyệt và thậm chí với
chính những người trong đội ngũ kiểm duyệt! Vậy mới nói, đi tìm câu trả lời tạm
đúng giữa hai khuynh hướng ấy là một việc khó khăn, khó lòng nhanh chóng và thấu
đáo trong bối cảnh chính trị hiện tại ở Việt Nam.
Đứng trước sự khó khăn còn lâu
dài, tôi chọn cách dễ hơn và cũng chả chắc đã được xem là tạm thấu đáo để bàn một
chút về kiểm duyệt văn hóa.
Trước hết, dù muốn hay không
cũng phải thừa nhận là nguyên tắc kiểm duyệt văn hóa, cho đến nay, không phải
chỉ được thực hiện ở Việt Nam mà ở rất nhiều nước và vùng lãnh thổ trên thế giới.
Và, cũng đã có những quốc gia từng thực hiện rồi lại bỏ kiểm duyệt văn hóa, Hàn
Quốc là một trong số đó. Ngay ở Việt Nam, trước năm 1954 vấn đề kiểm duyệt vẫn
diễn ra ở các chiều kích khác nhau.
Thuở đó, các vùng dưới quyền kiểm
soát Pháp như các thành phố Hà Nội, Huế và Sài Gòn đều có nhà xuất bản âm nhạc.
Các ấn phẩm được in với hai chữ “k.d.” (kiểm duyệt) với con số và ngày chứng
minh rằng bài ca này được cấp phép lưu hành. Một điều đương nhiên thuở đó nữa
là nhạc cách mạng không được xuất bản ở vùng Pháp kiểm soát và ở vùng kháng chiến
thì nhạc của nhạc sĩ vùng Pháp không được lưu hành (tất nhiên, ở cả hai vùng ấy,
người ta vẫn hát thầm những bài hát mà họ thích dù bị cấm). Từ thời đó Việt Nam
đã có hai thế giới âm nhạc hoàn toàn riêng biệt.
Trở lại chủ đề chính của bài viết
này, có ba câu chuyện theo tôi cần quan tâm khi chấp nhận nguyên tắc kiểm duyệt
văn hóa trong hiện tại.
Thứ nhất,
về cấp hành chính của việc kiểm
duyệt. Tôi nghĩ hợp lý nhất là sản phẩm văn hóa xuất hiện ở địa phương nào thì
do cơ quan kiểm duyệt văn hóa ở địa phương đó chịu trách nhiệm. Ví dụ: một sản
phẩm băng dĩa ca nhạc hoặc chương trình biểu diễn ca nhạc - sân khấu - trình diễn
thời trang - triển lãm mỹ thuật, nhiếp ảnh, cần xuất hiện ở TPHCM, dù đến từ Việt
Nam hay từ quốc gia khác, thì chỉ cần sở văn hóa và thể thao của thành phố này
kiểm duyệt và cấp phép. Sau giấy phép mang tính kiểm duyệt đó, theo đúng các
quy định dành cho đối tượng trong nước và nước ngoài, không được có bất cứ yêu
cầu nào khác của cấp nào khác can thiệp vào. Nếu sau đó có phát hiện sai phạm
thì tùy theo mức độ vi phạm cơ quan kiểm duyệt sẽ bị xử lý trách nhiệm hành
chính, trách nhiệm kỷ luật (đối với cán bộ, công chức) hoặc trách nhiệm hình sự.
Đối với sản phẩm văn hóa đã được
kiểm duyệt để lưu hành, ngoài việc phải có giá trị trên toàn Việt Nam, còn cần
quy định rõ cấp kiểm duyệt nào cấp phép thì chỉ cấp ấy mới có quyền và trách
nhiệm thu hồi hoặc hủy bỏ giấy phép đã cấp. Cần phải quan tâm đến vấn đề này vì
trong một thời gian rất dài đã tồn tại ở Việt Nam một quy định mang tính “vô hiệu
hóa quyền của cơ quan kiểm duyệt”, đó là: sau khi nhận được giấy phép lưu hành
do sở văn hóa địa phương cấp, đơn vị được cấp phép vẫn phải gửi sản phẩm lên cơ
quan quản lý văn hóa cấp trên (Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch - VH-TT&DL) để
kiểm duyệt một lần nữa và dán tem! Quy định này chỉ được bãi bỏ tại Nghị định
79/2012. Mặt khác, đến nay vẫn tồn tại một quy định vừa bất hợp lý vừa bất hợp
tình theo tôi cần phải sửa đổi, đó là: thay vì Bộ VH-TT&DL giữ quyền kiểm
duyệt và cấp phép cho các chương trình của người Việt Nam ở nước ngoài thì nên
giao việc đó cho sở VH-TT&DL các tỉnh, thành như đối với các sản phẩm văn
hóa đến từ nước ngoài mà các cơ quan này gần đây đã được giao.
Thứ hai,
khi đã chấp nhận thực hiện các
quy định ở câu chuyện thứ nhất về thẩm quyền của cấp kiểm duyệt thì câu chuyện
trình độ của đội ngũ kiểm duyệt là vô cùng quan trọng. Người có trách nhiệm kiểm
duyệt cần phải đủ tinh tường và cả tinh tế để cái xấu không bị lọt qua lưới kiểm
duyệt nhưng cái đẹp cũng không bị chính cái lưới ấy khai tử.
Có thể ví von người làm quản lý
nhà nước về văn hóa, người có chức trách kiểm duyệt văn hóa vừa phải như cảnh
sát lại vừa phải như bà đỡ. Cảnh sát là để “thổi còi” đúng lúc, đúng chỗ những
gì không được phép làm trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật. Còn bà đỡ là để biết
nâng niu giá trị sáng tạo nghệ thuật vừa mới ra đời, biết làm gì để biết nó
đáng sống và giúp nó tiếp tục sống khỏe mạnh. Thiếu cả hai kỹ năng trên đây,
khó có thể làm người kiểm duyệt mà sự phát triển xã hội lành mạnh, tiến bộ cần
tới.
Có một câu chuyện có thật trăm
phần trăm từng xảy ra ở TPHCM cách nay chưa tới 10 năm mà vì lý do tôn trọng
tôi muốn được giấu tên thật của những người trong cuộc. Một họa sĩ - tiến sĩ
nghệ thuật, từng giữ chức vụ quan trọng ở cấp thành phố, sau khi rời nhiệm sở
đã phối hợp với một bảo tàng thực hiện triển lãm tranh của cá nhân ông. Trong
chùm tranh ông gửi để xin phép theo quy định, có một bức tranh không qua được cửa
kiểm duyệt. Đó là bức vẽ cảnh trăng trên rừng Trường Sơn với những vệt màu mô tả
hình ảnh phụ nữ đang khỏa thân tắm suối. Ý kiến của vị nắm quyền kiểm duyệt về
bức tranh này là “Trường Sơn là một biểu tượng thiêng liêng của dân tộc chúng
ta mà lại vẽ có cảnh tắm suối khỏa thân, mất tôn nghiêm. Mặt khác, đã xem trộm
người ta tắm mà còn vẽ ra là không đàng hoàng. Không đồng ý cho triển lãm bức
tranh này”. Vì ý kiến kiểm duyệt như vậy mà sau đó triển lãm đã diễn ra nhưng
thiếu bức tranh có thể nói là đẹp này! Đối tượng kiểm duyệt là họa sĩ, là người
phụ trách bảo tàng mỹ thuật khi ấy cho đến nay vẫn không nguôi thái độ bất phục,
bất kính với vị kiểm duyệt quá kém về trình độ nhận thức nghệ thuật ấy.
Người trong nghề, đạo diễn điện ảnh
Bùi Thạc Chuyên, từng nói: “Điện ảnh Hàn Quốc chấp nhận bỏ kiểm duyệt vào năm
1996 vì muốn có nghệ thuật. Nghệ thuật cần phải được tự do. Tự do đúng với khái
niệm và nội hàm của từ này. Tự do với nghệ thuật như là không khí để thở vậy.
Không có tự do sáng tác thì nghệ thuật sẽ chết. Đừng trách nghệ sĩ Việt Nam
không dám đi đến cùng một vấn đề nào đó”. Tâm sự của đạo diễn Bùi Thạc Chuyên về
tự do trong nghệ thuật quả là rất đáng được chia sẻ khi liên hệ với trường hợp
người kiểm duyệt đã “giết chết” bức tranh vẽ trăng Trường Sơn của vị họa sĩ khả
kính mà tôi vừa kể trên đây. Tâm sự ấy một lần nữa gián tiếp nói rằng, trao quyền
kiểm duyệt văn hóa nghệ thuật không đáng sợ bằng việc trao quyền ấy cho ai!
Ở Việt Nam sau năm 1954 và sau
năm 1975, vấn đề quá chậm cấp phép cho các bài hát trước năm 1954 và trước 1975
ở miền Nam có lẽ một phần lớn là do chưa chuẩn bị được đội ngũ kiểm duyệt đúng
chuẩn tinh tường và tinh tế.
Ngày 15-10-1989, Cục Âm nhạc và
Múa mới bắt đầu cấp phép cho các bài hát trước 1975 được phổ biến. Trong đợt đầu
tiên này có các tác phẩm xưa của Văn Cao, Đặng Thế Phong, Hoàng Quý, Nguyễn
Xuân Khoát, Đoàn Chuẩn...
Phải đợi hai năm nữa, ngày
10-8-1991, thì mới có một số tác phẩm thời Việt Nam Cộng hòa của các tác giả
Thanh Sơn, Y Vân, Trần Thiện Thanh, Trịnh Công Sơn, Phạm Thế Mỹ, Hoàng Trọng,
Minh Kỳ... được cấp phép phổ biến.
Và mãi đến 16-1-2003, một số bài
ca của nhạc sĩ Việt ở hải ngoại được cấp phép lưu hành ở Việt Nam. Một số tác
giả phải đợi lâu hơn - nhạc Phạm Duy mới bắt đầu được cấp phép hồi năm 2005, nhạc
Lam Phương năm 2007 và nhạc Hoàng Thi Thơ năm 2008.
Câu chuyện thứ ba và cũng là câu
chuyện kết thúc bài viết cạn cợt này. Đó là, một khi tiến bộ kỹ thuật đã trao
cho người dùng các tiện ích Internet để tự công bố tác phẩm báo chí, ca nhạc,
phim và thời trang của mình mà không cần phải qua một cửa kiểm duyệt nào, thì lẽ
nào công tác kiểm duyệt văn hóa nghệ thuật cứ mãi đứng yên? Ít nhất cũng đừng để
có khoảng cách quá “bất công” trong quản lý các hoạt động văn hóa nghệ thuật
trong và ngoài các tiện ích Internet như YouTube, Facebook.
Rất khó thuyết phục rằng trình
diễn khỏa thân và hát nhạc kích động hận thù dân tộc trên Internet thì được vì
đó là một khoảng công cộng “ảo”, khác với chốn công cộng ngoài đời! Và, cũng
nên nghĩ đến một lúc nào đó thì bỏ được việc kiểm duyệt văn hóa, như Hàn Quốc
vào năm 1996. Từ bấy đến nay, phim Hàn Quốc cũng có “chăn gối nóng bỏng” và
đánh đấm kinh hoàng như một số phim có qua kiểm duyệt sản xuất tại Việt Nam
đâu!
NGUYỄN THẾ THANH
Nhận xét
Đăng nhận xét