Kết-TÀU XÂM LƯỢC VN-1979-Các bài học XXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXX
TÀU XÂM LƯỢC VIỆT NAM-1979:
kết
CÁC BÀI HỌC
kết
CÁC BÀI HỌC
Mục tiêu tuyên bố của cuộc “phản kích tự vệ” là để dạy cho Việt Nam một
bài học. Giới phân tích nhận định, thay vì dạy cho Việt Nam một bài học, Trung
Quốc đã học được bài học quân sự đắt giá của chính mình.[1] Đánh
giá về hệ quả cuộc chiến tranh biên giới Việt – Trung 1979 cần đối chiếu với
các mục tiêu của các bên đề ra trước cuộc chiến.
Về mục tiêu chính trị: Trung Quốc không thể “dạy cho Việt Nam một bài học”
như lời Đặng Tiểu Bình đã nói. Trung Quốc không tác động được đường lối đối ngoại
độc lập tự chủ của Việt Nam. Họ đã không buộc được Việt Nam phải rút quân khỏi
Campuchia, cứu được chính quyền Pol Pot. Trung Quốc cũng không gây được ảnh hưởng
lên chính phủ Việt Nam trong vấn đề Hoa kiều, chính sách của Việt Nam đối với
Trung Quốc, với Liên Xô, với Mỹ. Họ cũng không đánh bại được ý chí của người Việt
Nam trong tranh chấp hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Cuộc chiến tranh này tiếp tục thể hiện truyền thống Đại Hán theo đó
Trung Quốc là cái nôi của thế giới, các quốc gia nhỏ bé khác bên ngoài Trung Quốc,
trong đó có Việt Nam, là man di và phải là những chư hầu trong vùng ảnh hưởng của
Trung Quốc, chịu sự dạy dỗ của Trung Quốc. Ý đồ đã được tuyên bố của Trung Quốc
là “dạy cho Việt Nam bài học” đã biến mục tiêu hàng đầu của cuộc chiến tranh thành
một “hành động trả thù”.[2] Cuộc
chiến tranh đã làm các nước trong khu vực lo sợ về hình ảnh một nước lớn sẵn sàng
đặt mình trên nước khác, sử dụng vũ lực nếu vị thế và uy lực của mình bị thách
thức.
Không nước ASEAN nào vui vẻ với sự trừng phạt Việt Nam của Trung Quốc. Đại
diện của Singapore tại Liên Hiệp Quốc, Tommy Koh nói tại Liên Hiệp Quốc: “Lẽ ra
Trung Quốc không nên tự mình quyết định luật lệ…”[3] Thái
độ kẻ cả, không tôn trọng bình đẳng chủ quyền giữa các nước, không phù hợp với
luật pháp quốc tế đã bị nhân loại phê phán. “Bất kể vì lý do gì”, Bộ trưởng Ngoại
giao Nhật Bản Sunao Sonoda bình luận rằng “việc gửi quân xâm nhập nước khác là
không đúng”.[4] Tuy
nhiên, Trung Quốc đạt được những mục tiêu nhất định trong quan hệ với các cường
quốc. “Washington vừa công khai lên án cả cuộc xâm lược của Việt Nam vào
Campuchia và cả cuộc xâm lược của Trung Quốc vào Việt Nam lại vừa chia sẻ mối
quan tâm của Trung Quốc trong việc ngăn chặn ảnh hưởng của Liên Xô tại Đông Nam
Á.
Ý chí sẵn sàng sử dụng vũ lực của Bắc Kinh, bất chấp gánh chịu thương
vong, đã biến Trung Quốc thành “một bức tường ngăn chặn có giá trị” chủ nghĩa bành
trướng Xô-Việt. Washington vào thời điểm đó đã tiếp tục tìm kiếm một mối quan hệ
chặt chẽ với Trung Quốc để cân bằng cán cân với Liên Xô”.[5]Trung
Quốc tỏ rõ quyết tâm ngả về Mỹ, làm hả hê Mỹ vì trả được nhục thất bại tại Việt
Nam, tận dụng được viện trợ Mỹ và tiếp tục gây sức ép làm Việt Nam kiệt quệ chảy
máu, buộc phải rút khỏi Campuchia vào năm 1989. Trung Quốc cũng đã thành công
trong việc tiên liệu đúng phản ứng của Liên Xô qua đó đạt được phần nào mục tiêu
hạ thấp vai trò và uy tín của Liên Xô. Với quyết tâm của mình, sự giúp đỡ của Mỹ
và khả năng tận dụng các biến cố chính trị, Trung Quốc có đủ thời gian và điều
kiện thực hiện hiện đại hóa, thực hiện mục tiêu “cường quốc, cường quân” và vươn
lên trở thành cường quốc thứ hai trên thế giới.
Về mục tiêu quân sự: Trung Quốc không thể tiêu diệt được sư đoàn nào của
Việt Nam. Họ đã thể hiện trình độ chiến đấu kém trong cuộc chiến. Tại Lạng Sơn,
2 Quân đoàn Trung Quốc đã bị một trung đoàn Quân đội Nhân dân Việt Nam cầm chân
trong 1 tuần, một Quân đoàn khác cần 10 ngày để tiến vào Lào Cai và Cam Đường –
hai đô thị cách biên giới không đến 15 km. Trung Quốc chiếm Cao Bằng vất vả đến
mức cần ít nhất 2 Quân đoàn để tiếp tục tấn công một thị xã mà Trung Quốc tuyên
bố đã chiếm được. Tại Quảng Ninh, một trung đội QĐND Việt Nam đã cầm chân 5 tiếng
đồng hồ một trung đoàn Trung Quốc đang trên đường chiếm núi Cao Ba Lanh giáp biên
giới, gây thương vong cho 360 người trong quân số 2.800 của trung đoàn này.[6] Số
chết và thương vong của Trung Quốc trong cuộc chiến là quá cao.[7] Mục
tiêu quân sự lớn nhất mà Trung Quốc đạt được có lẽ là Đặng Tiểu Bình đã thành công
trong việc sử dụng các thiệt hại đau đớn của cuộc chiến tranh Trung – Việt để
thuyết phục lãnh đạo Trung Quốc về nhu cầu cần hiện đại hóa[8].
Về mục tiêu kinh tế: Trung Quốc đã phá hủy tận diệt các cơ sở kinh tế của
Việt Nam ở vùng biên giới song không làm kiệt quệ kinh tế Việt Nam, buộc phải
phụ thuộc vào Trung Quốc. King C. Chen đã mô tả mức độ triệt hạ như sau: “Ở mọi
nơi các cây cầu bị giật sập và các đường xá bị gài mìn và phá hủy. Các bệnh viện
tại Lào Cai, Lạng Sơn và Cao Bằng bị triệt hạ. Tại cả ba thị trấn … mọi sự bị đổ
nát và tất cả đều câm lặng. Khoảng 80% các kiến trúc bị phá hủy. Không một cột điện
duy nhất nào còn đứng lại trong hay quanh ba thị trấn … Có sự khan hiếm nước uống
khắp nơi trong vùng và dòng điện bị cắt đứt. Các ngôi làng kề cận cũng nằm
trong sự đổ nát …”[9] Các
thiệt hại này cộng thêm bao vây cấm vận của Mỹ về lâu dài đã làm cho kinh tế Việt
Nam khó khăn.
Về mục tiêu biên giới lãnh thổ: Trung Quốc không thay đổi được đường biên
giới Việt – Trung theo ý Trung Quốc nhất là tại những nơi Công ước Pháp – Thanh
chưa giải quyết triệt để. Song Trung Quốc cũng không tôn trọng tuyên bố rút quân
ngày 5/3/1979 của mình, vẫn tiếp tục chiếm đóng một số vùng đất và điểm cao
trong lãnh thổ Việt Nam, khống chế để hợp thức hóa và gây áp lực trong đàm phán.[10] Chiến
tranh biên giới vẫn tiếp diễn ở quy mô nhỏ hơn nhưng không kém phần ác liệt cho
đến tận 1988. Tình hình này buộc Việt Nam luôn ở trong tình trạng chiến tranh,
duy trì lực lượng quân thường trực lớn, gây khó khăn cho kinh tế.
Gerald Segal kết luận, cuộc chiến tranh chống Việt Nam của Trung Quốc năm
1979 là một thất bại hoàn toàn: “Trung Quốc đã không thể buộc Việt Nam phải rút
quân khỏi Campuchia, không chấm dứt được các cuộc đụng độ ở biên giới, không tạo
được sự nghi ngờ về sức mạnh của Liên Xô, không xua đi được hình ảnh về Trung
Quốc là một con hổ giấy, và không kéo được Mỹ vào một liên minh chống Liên Xô”.[11] Harlan
W. Jencks đánh giá: Bất kể mọi tính toán bá đạo tinh vi kiểu Machiavelli trong
việc ấn định thời biểu của cuộc “tự vệ hoàn kích”, và bất kể mọi sự hy sinh của
các binh sĩ và dân chúng của họ, các giới chức thẩm quyền Trung Quốc có lẽ đã
thiệt hại nhiều hơn những gì họ thu được”.[12] James
Mulvenon và một số tác giả khác kết luận: “cuộc xâm lăng của Trung Quốc đã là một
sự thất bại đáng kinh ngạc”.[13]
Lãnh đạo và các nhà nghiên cứu Trung Quốc lại có cái nhìn khác về chiến
thắng khi coi trọng các kết quả địa chính trị hơn là hiệu năng tác chiến trên
chiến trường.[14] Đặng
Tiểu Bình đã xác quyết một sự chiến thắng chính trị của cuộc chiến tranh bất kể
có một số tổn thất về quân sự và tuyên bố nó vẫn là một cuộc chiến thắng của
Trung Quốc. Alnie Ginck trong nghiên cứu công bố năm 1992 lại cho rằng: “Cuộc
chiến tranh đã đạt được thành công nhất định khi nó được xem như một chiến thuật
trong chiến lược chiến tranh tiêu hao kéo dài của Trung Quốc”.[15]
Trung tướng Lưu Á Châu, Chính ủy Đại học Quốc phòng Trung Quốc, nhận xét
về thành công của Trung Quốc trong chiến tranh 1979: “Cuộc chiến của Đặng Tiểu
Bình là đánh để hai người xem, một là Đảng Cộng sản Trung Quốc, hai là người Mỹ…Về
chính trị, cuộc chiến này không thể không đánh. Sau khi Đặng Tiểu Bình trở lại
nắm quyền, thực hiện chương trình cải cách mở cửa, cần thống nhất quyền lực. Cách
tốt nhất là qua chiến tranh. Đánh Việt Nam là lấy lòng tin của Mỹ, không phải
giúp Mỹ trả nợ thất bại ở Việt Nam mà vì chính lợi ích của Trung Quốc. Cuộc chiến
đã tạo nền tảng bình thường hóa quan hệ với Mỹ, có 10 năm quan hệ nồng ấm, mang
lại cho Trung Quốc sự viện trợ ồ ạt kinh tế, kỹ thuật, khoa học, nguồn vốn và cả
quân sự cần thiết cho cải cách…
Tuần trăng mật giữa Mỹ và Trung Quốc kéo dài đến mười năm, đến ngày
4/6/1989 mới tạm lắng. Cuộc chiến này đem lại cho Trung Quốc những gì? Đó là một
lượng lớn thời gian, tiền bạc và kỹ thuật. Nhờ những yếu tố này, Trung Quốc tiếp
tục đứng vững sau khi Liên Xô sụp đổ. Đây là thành công vĩ đại. Thậm chí có thể
nói, bước đi đầu tiên của cải cách mở cửa Trung Quốc chính là từ cuộc chiến tranh
này. Với ý nghĩa đó, cống hiến của quân đội Trung Quốc đối với công cuộc cải cách
mở cửa thật to lớn vô cùng”.[16] Trương
Hiếu Minh đưa ra nhận xét: “Đối với Đặng, dạy Việt Nam “bài học” là thông điệp
không chỉ gửi cho Việt Nam mà cả cho Liên Xô, Mỹ và các nước phương Tây.
Phản ứng của Việt Nam trước cuộc xâm lược là phòng thủ biên giới phía bắc,
tiếp tục chính sách thù địch với Trung Quốc, dựa vào Liên Xô để có hỗ trợ tài
chính và kinh tế. Để đáp lại, Mỹ và phương Tây từ 1979 có vẻ quan tâm hơn việc
cung cấp hỗ trợ tài chính và công nghệ giúp Trung Quốc cải cách kinh tế. Mỹ không
còn nghĩ Trung Quốc là đe dọa, tuy chưa phải là đồng minh. Vì thế Mỹ có thể dốc
toàn lực để đánh bại Liên Xô trong thập niên cuối cùng của Chiến tranh Lạnh. Bên
trong Trung Quốc, Đặng không chỉ củng cố được quyền lực chính trị mà cũng thực
hiện cả nghị trình cải tổ kinh tế. Liên Xô ở trong tình thế nhiều khó khăn
trong thập niên cuối của Chiến tranh Lạnh. Vừa phải cạnh tranh với Mỹ trên toàn
cầu, Moskva cũng đối diện thách thức của Trung Quốc ở châu Á.
Từ góc nhìn chiến lược, cả Việt Nam và Liên Xô đều gặp khó khăn hơn
Trung Quốc. Vì thế Liên Xô rốt cuộc nhận ra họ không thể tiếp tục hỗ trợ Việt
Nam vào cuối thập niên 1980. Việt Nam phải tìm đến Trung Quốc, thừa nhận sai lầm
chính sách từ 1978. Rốt cuộc, Trung Quốc đã vượt mặt Việt Nam cả về chính trị và
chiến lược”.[17] Cuộc
chiến cũng thay đổi cách nhìn nhận chuẩn bị chiến tranh hiện đại cho quân đôi
Trung Quốc. Bắc Kinh đã rút ra các bài học cần thiết để hiện đại hóa quân đội.
Những thay đổi sau 1979 đã tái sinh Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, giúp
họ vươn xa, vươn rộng hơn trên cục diện địa chính trị quân sự thế giới.[18] Lực
lượng đặc biệt tinh nhuệ (SOF – special-operations forces) của Trung Quốc, một
mô hình giống đặc công Việt Nam, được thành lập và triển khai ngay trong chiến
dịch Lão Sơn ở biên giới Việt-Trung[19]
Cuộc chiến biên giới kéo dài và những bất ổn của tình hình quốc tế buộc
Việt Nam phải rút khỏi Campuchia, sớm tính đến bình thường hóa quan hệ và nhanh
chóng giải quyết vấn đề biên giới.
Một số nhà bình luận quốc tế cũng cho rằng Trung Quốc chịu thất bại về
chiến thuật và quân sự trên chiến trường nhưng đạt được một số thành công trong
dài hạn.[20]Đây
là trận cần đánh để thể hiện với Mỹ sự dứt khoát không chung đường với Liên Xô
và Việt Nam, tranh thủ sự giúp đỡ của Mỹ để thực hiện bốn hiện đại hóa.
Washington nhìn thấy mối quan tâm của Bắc Kinh và tìm kiếm quan hệ chặt chẽ nhằm
kiềm chế ảnh hưởng của Liên Xô ở Đông Nam Á thông qua Việt Nam. Cuộc chiến cũng
làm phơi bày sự yếu kém lạc hậu về quân sự và kinh tế của Trung Quốc, lý do để Đặng
Tiểu Bình nắm thế lãnh đạo thực hiện hiện đại hóa. Sau năm 1989 (khởi đầu sự sụp
đổ của Liên Xô), Việt Nam phải điều chỉnh chiến lược đối ngoại của mình do hậu
quả cuộc chiến biên giới và 10 năm suy thoái kinh tế. John M. Peppers[21] phân
tích:
Thứ nhất, Việt Nam đánh mất sự cân băng ảnh hưởng truyền thống, quý giá
giữa các cường quốc, nối kết nhiều hơn với Liên Xô. Chính vì thế, Việt Nam, giống
như Cuba, đã phải trả giá đắt hơn phần lớn các nước khác với sự sụp đổ của Liên
Xô.
Thứ nhì, Việt Nam đã không đạt được mục đích hay vấn đề gì của mình với
Trung Quốc. Từ ngay chính vấn đề biên giới, cho đến vùng biển Vịnh Bắc Bộ
và các quyền đánh cá, cho đến Quần đảo Trường Sa, các cuộc đàm phán và tiến triển
đã bị trì hoãn trong 20 năm.
Thứ ba, Việt Nam đã bị gán nhãn hiệu trên bình diện quốc tế như một mối
đe dọa cấp vùng (và một chư hầu của Liên Xô), mất đi viện trợ thiết yếu từ
Australia, Nhật Bản, Thụy Điển, Đan Mạch, cũng như dầu hỏa của Trung Quốc.
Kết quả là một hiệu ứng tàn phá chồng chất trên nền kinh tế trong thời
gian dài. Sau cùng, sự căng thẳng và cạn kiệt các nguồn lực trong năm 1979
và hậu quả của nó trên các vấn đề đối nội của Việt Nam không thể bị đánh giá thấp,
“bởi đối với Việt Nam, cái giá chiến đấu hai trận chiến tranh trong một thời kỳ
ba tháng là quá đắt. Nền kinh tế dọc biên giới Trung Quốc đã bị tàn phá”.
Trương Hiêu Minh tổng kết 6 bài học cho Quân Giải phóng Nhân dân Trung
Quốc (QGPND) từ cuộc chiến tranh biên giới 1979:
Bài học thứ nhất là đánh giá thấp khả năng chiến đấu của các đối
thủ của mình. Cuộc chiến Việt-Trung năm 1979 cho thấy QGPND quan tâm rất ít đến
binh pháp và chiến thuật của QĐND Việt Nam trước khi tấn công Việt Nam, vì vậy đã
chịu tổn thất nặng, không đạt được các mục tiêu đề ra. Các tướng lĩnh Trung Quốc
cũng phải thừa nhận rằng chiến thuật kiểu du kích, công binh và dân quân tự vệ
của Việt Nam đã thành công đáng kinh ngạc trong việc kìm chân quân Trung Quốc.
Bài học thứ hai liên quan đến tình báo và lập kế hoạch. Thiếu thốn
thông tin từ lâu về một đồng minh truyền thống đã là một thách thức lớn cho việc
lập kế hoạch chiến tranh và kế hoạch tác chiến của Trung Quốc. Các đánh giá về địa
lý và địa hình miền Bắc Việt Nam của QGPND thường dựa trên các bản đồ và thông
tin địa lý đã lỗi thời, trong khi khả năng trinh sát chiến trường lại bị hạn chế.
Một trong những sai lầm lớn của quân đội Trung Quốc là đánh giá sai lực lượng dân
quân rất lớn trong dự đoán về sức mạnh quân sự Việt Nam. Kinh nghiệm của QGPND
cho thấy, dân quân Việt thể hiện sức đề kháng không hề nao núng và thực hiện các
cuộc tấn công bất ngờ hơn vào quân xâm lược hơn cả bộ đội chính quy QĐND Việt
Nam.
Bài học thứ ba là về khả năng chiến đấu của QGPND vì đây là lần đầu
tiên Trung Quốc áp dụng tác chiến phối hợp với nhiều binh chủng gồm xe tăng, đại
bác, bộ binh cùng với một lực lượng không quân và hải quân yểm trợ. Lạc hậu
trong binh pháp và chiến thuật khiến quân đội Trung Quốc không thể phối hợp một
cách bài bản trong tác chiến.
Bài học thứ tư, QGPND yếu kém về hiệu năng chỉ huy và điều khiển.
Bài học thứ năm, QGPND thiếu một hệ thống và cơ cấu cung cấp hậu cần
hiện đại để hỗ trợ cho những chiến dịch quân sự đòi hỏi di chuyển nhanh và ở vùng
xa xôi.
Bài học thứ sáu là làm thế nào để có thể diễn giải một học thuyết
cũ về chiến tranh nhân dân vào các cuộc xung đột diễn ra bên ngoài biên giới
Trung Quốc.[22]
Mục tiêu của Việt Nam trong cuộc chiến biên giới là bảo vệ được chủ quyền
lãnh thổ; tiếp tục ủng hộ nhân dân Campuchia tiêu diệt chế độ diệt chủng Pol
Pot đồng thời bảo vệ được sườn phía nam đất nước; bảo vệ được tính độc lập
trong chính sách đối ngoại; giải quyết các tranh chấp thông qua đàm phán hòa bình.
Hầu hết các mục tiêu này đều đã đạt được. Về tầm nhìn chiến lược, Việt Nam đã
thành công trong cứu mình, cứu dân tộc Campuchia khỏi nạn diệt chủng của Khmer Đỏ.
Dù muộn mằn nhưng thế giới cũng đã nhìn nhận lại những cống hiến của Việt
Nam trong đấu tranh chống tội ác diệt chủng của Pol Pot[23] và
giúp dân tộc Campuchia hồi sinh trong nền hòa bình lâu dài. Quân tình nguyện Việt
Nam đã đưa ra một thực tiễn sống động, đặt nền móng cho lý thuyết can thiệp nhân
đạo mà thập niên 1990 Liên Hợp Quốc và các nước phương Tây áp dụng. Xét từ góc độ
lý thuyết, trường hợp Campuchia là kết quả hoàn hảo của can thiệp nhân đạo từ
ngoài vào, trong đó quốc gia được hỗ trợ đã hồi sinh và phát triển mạnh mẽ
trong hòa bình trong khi các trường hợp Aghanistan, Iraq, Nam Tư cũ, Syria với
sự can thiệp của Mỹ, phương Tây, NATO, Nga đến nay vẫn chưa giải quyết xong hậu
quả.
Tuy nhiên một lần nữa, lịch sử lại nhắc lại các bài học đáng giá cho Việt
Nam:
Bài học cảnh giác và lợi ích quốc gia trên hết. Niềm tin vào những người
anh em cùng chung ý thức hệ đã làm Việt Nam mất cảnh giác, không tin bị tấn công
trong cả hai cuộc chiến biên giới Tây Nam và phía Bắc.[24] Cuộc
chiến 1979 cho thấy trong quan hệ quốc tế, lợi ích quốc gia là cao nhất, trên cả
tinh thần quốc tế vô sản và nhiều khi các bên sẵn sàng sử dụng vũ lực để đạt mục
tiêu chính trị.
Henry J. Kenny nhận xét: “Dù có một điều nhìn chung được công nhận là
Việt Nam đã dạy cho Trung Quốc một bài học quân sự trong năm 1979, điều cũng đúng
không kém là Trung Quốc đã dạy cho Việt Nam một bài học chính trị. Bài học
đầu tiên mà Việt Nam học được là Trung Quốc sẽ sử dụng vũ lực khi cần thiết để đạt
được các mục tiêu chính trị quan trọng, bất kể các lời tuyên bố trong quá khứ về
nguyên tắc”.[25]
Trung Quốc có thể đã nhận được những bài học và tổn thất về mặt chiến
thuật tại chiến trường Campuchia và chiến tranh biên giới với Việt Nam năm 1979
nhưng sự kiên trì ngoại giao của Bắc Kinh đã giúp họ đạt được phần lớn các mục
tiêu chính trị sau một giai đoạn chiến lược. Không phải vô cớ, Trung Quốc đã kiên
trì kéo dài cuộc chiến ở biên giới phía Bắc tới tận năm 1989 trước khi Việt Nam
rút quân khỏi Campuchia. Trung Quốc đã tận dụng tốt thời gian 10 năm Mỹ ủng hộ
vật chất, khoa học kỹ thuật làm đối trọng với Liên Xô để vươn lên thành cường
quốc thứ hai thế giới và hiện đại hóa quân đội. Trung Quốc cũng đã thành công
trong việc bao vây, cô lập và kìm hãm kinh tế Việt Nam. Chiến tranh biên giới
1979 là không thể tránh khỏi, khi Trung Quốc đã quyết tâm sử dụng biện pháp quân
sự để đạt mục tiêu chính trị. Câu hỏi chỉ còn là làm thế nào, trong các hoàn cảnh
tương tự, khôn khéo hạn chế thấp nhất những hậu quả không mong muốn và tránh được
những cuộc chiến trong tương lai?
Bài học tự cường, độc lập trong các quyết định. Là nước nhỏ, Việt Nam rất
cần sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước khác, cần đồng minh trong các mối quan hệ
quốc tế song cũng cần tỉnh táo không nghiêng về bên nào, không đánh đổi độc lập
chủ quyền lấy một sự giúp đỡ vật chất hay tinh thần. Cuộc chiến 1979 là hậu quả
của hai trục quan hệ, ở cấp khu vực là Việt Nam – Campuchia – Trung Quốc, ở cấp
quốc tế là trục Trung Quốc – Liên Xô – Mỹ. Hiệp ước Việt – Xô 1978 đóng vai trò
phụ trong cuộc chiến. Liên Xô chỉ tăng cường viện trợ kinh tế, quân sự và chưa
sẵn sàng dùng quân đội giúp Việt Nam chống xâm lược.
Bằng sự độc lập, tự cường và lòng yêu nước cao độ của mình, Việt Nam đã
thoát khỏi thế là con tốt trong bàn cờ chính trị quốc tế. Cuộc chiến đấu của Việt
Nam đã được nhiều nước trên thế giới đồng tình, ủng hộ không vụ lợi. Chiến
tranh 1979 đã tạo cảm hứng cho chính sách đối ngoại của Việt Nam những năm sau
này; muốn làm bạn và sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước trên thế giới, không
phân biệt ý thức hệ, thể chế, trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ, tôn trọng luật quốc tế. Đó cũng là tiền đề cho chính sách “ba không”
của quốc phòng Việt Nam: “không tham gia các liên minh quân sự, không là đồng
minh quân sự của bất kỳ nước nào, không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở
Việt Nam và không dựa vào nước này để chống nước kia.”.[26] Đây
là sự phát triển đã được đúc kết trong các sách trắng quốc phòng 1998, 2004 và
2009.[27]
Bài học chung sống với các nước láng giềng. Việt Nam cần áp dụng nhuần
nhuyễn kinh nghiệm chung sống từ lịch sử của cha ông. Một vị tướng Việt Nam sau
này đã nhận xét, “phải học cách sống chung với anh hàng xóm to lớn”.[28] Sau
khi Trung Quốc tuyên bố rút quân, Việt Nam đã không tiến hành truy kích, một
quyết sách giống như Lý Thường Kiệt mở đường cho đội quân của Quách Quỳ về nước
năm 1077 hay Nguyễn Trãi ở Hội thề Đông Quan 1427 mở đường cho Vương Thông về nước.
Chính trong những ngày tháng ác liệt nhất của chiến tranh biên giới 1979-1989,
quyết định tưởng như không tưởng về tìm đường bình thường hóa quan hệ giữa hai
nước đã dần được hình thành.
Bài học phải tận dụng mọi thời cơ để giảỉ quyết dứt điểm vấn đề biên giới
lãnh thổ, tạo môi trường hòa bình ổn định để phát triển đất nước. Tranh chấp biên
giới lãnh thổ luôn là ngòi nổ cho hầu hết các cuộc chiến tranh. Khía cạnh tranh
chấp biên giới đã bị các yếu tố khác của cuộc chiến làm lu mờ[29] nhưng
thực sự đó là vấn đề lớn. Vì vậy một trong những nhiệm vụ đầu tiên sau bình thường
hóa quan hệ là đàm phán giải quyết biên giới lãnh thổ.
Bài học về xây dựng đất nước. Muốn xây dựng đất nước phải giữ cho được “trong
ấm ngoài êm”[30].
Việt Nam mạnh lên mới có thể bảo đảm tránh được các cuộc xung đột vũ trang, mới
có tiếng nói và tự quyết định vận mệnh mình. Chính sách đối ngoại của Việt Nam
phải tạo được môi trường hòa bình, ổn định thuận lợi cho phát triển kinh tế, xây
dựng tiềm lực cho đất nước.
Các bài học này có những mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau. Việc bình thường
hóa và tập trung giải quyết vấn đề biên giới chính nhằm mục tiêu tạo môi trường
hòa bình và ổn định cho phát triển một Việt Nam hùng cường trong tương lai.
Cuộc chiến 1979 là một vết đen trong quan hệ hai nước anh em, đã từng sát
cánh giúp đỡ nhau trong đấu tranh giành độc lập. Quan hệ hữu nghị không thù nghịch
giữa nhân dân hai nước không dễ thay đổi và một lần nữa lại vượt lên những bất đồng.
Song nó không còn là quan hệ như trước vì vẫn còn tồn tại những bất đồng về đánh
giá cuộc chiến.[31]
Sau bình thường hóa quan hệ năm 1991, hai nước thỏa thuận không tuyên
truyền nhiều về cuộc chiến 1979, không kỷ niệm chính thức cuộc chiến.[32] Trung
Quốc không muốn gợi lại cuộc chiến với những yếu kém của quân đội; không muốn có
những bằng chứng liên quan đến Khmer Đỏ khi Tòa án quốc tế xét xử tội ác diệt
chủng; không muốn gây lại thù hằn với Việt Nam, đẩy nước này xích lại gần Mỹ.[33]Việt
Nam không muốn lại tái hiện tình thế nằm giữa hai gọng kìm trên bộ và biển; không
muốn bị cô lập với thị trường lớn thứ hai thế giới và đóng vai trò quan trọng
trong trao đổi thương mại; không muốn các thế lực bên ngoài lợi dụng chủ nghĩa
dân tộc gây mất ổn định. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ngày 19/2/2014 đã phát biểu:
“Đảng, Nhà nước không bao giờ quên công lao của đồng chí, đồng bào chiến đấu,
hy sinh để giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh biên giới xâm lược của Trung
Quốc …Các hoạt động kỷ niệm cũng phải tính có lợi cho đất nước nhất”[34].
Lịch sử là lịch sử. Những bài học rút ra từ hai phía là cần thiết, không
phải để nuôi dưỡng hận thù, mà để tránh những sai lầm lặp lại, vun đắp cho tình
hữu nghị giữa hai nước láng giềng anh em.
Trong giai đoạn này, biên giới Việt – Trung trở lại vai trò phong vũ biểu
phản ánh quan hệ xa gần giữa hai nước. Vấn đề biên giới đã bị chính trị hóa, đẩy
từ xung đột lên chiến tranh. Cả hai bên đều không muốn những tác hại không lường
được của cuộc chiến với mình, nhất là trường hợp của Việt Nam, song cũng không
thể tránh khỏi cuộc chiến do tác động của các lực đẩy toan tính chính trị từ bên
ngoài và trong nội bộ mỗi nước. Mối quan hệ địa chính trị lâu đời một lần nữa vẫn
là dòng chảy chính để hai nước xếp lại bất đồng./.
==================================
[1] Xiaoming
Zhang, China’s 1979 war with Vietnam: A reassessment, The China Quarterly, No.
184 (Dec., 2005), pp. 851 Published by: Cambridge University Press on
behalf of the School of
Oriental and African Studies
https://www.jstor.org/stable/20192542;
Gerald Segal, Defending China, New York, Oxford University Press 1985, p.
211-227; Nayan Chanda, Brother Enemy: the War after the War, Harcourt Brace
Jovanovic 1986; Bruce Elleman, Modern Chinese Warfare 1785-1989: London
Routedge 2001, ch.17
[2]Xiaoming
Zhang, “China’s 1979 War with Vietnam: A Reassessment”
[3] Ang
Cheng Guan, 30 năm cuộc chiến Việt – Trung. BBCVietnamese.com, 12/2/2009
[4]Christian
Science Monitor, 6 March 1979
[5]Xiaoming
Zhang, “China’s 1979 War with Vietnam: A Reassessment”
[6]Edward
C. O’Dowd, Chinese
Military Strategy In The Third Indochina War,
The Last Maoist War, Routledge: New York, 2007, Chapter 4: The 1979 Campaign,p. 45-73; Ngô Bắc dịch
The Last Maoist War, Routledge: New York, 2007, Chapter 4: The 1979 Campaign,p. 45-73; Ngô Bắc dịch
[7]Theo
Dương Danh Dy dịch. Tài liệu chưa kiểm chứng. Bài phát biểu của Đặng Tiểu Bình
trong hội nghị tổng kết nội bộ ngày 16/3/1979 chính thức thừa nhận: “Đánh lần này
vũ khí, quân số đều gấp mấy lần Việt Nam. Chiến đấu ở Cao Bằng chí ít là 5 đánh
1, 6 đánh 1. Chiến đấu ở Lạng Sơn, Lào Cai cũng đều gấp mấy lần, thậm chí 6
đánh 1, 7 đánh 1.” và “Thương vong của chúng ta là 4 lần so với 1. Thần thoại của
chúng ta đã bị hủy diệt.” Xem “Cuộc chiến tranh 17-2-1979 thảm bại của người khổng
lồ chân đất sét”, Đất Việt , 5/3/2016,
http://baodatviet.vn/the-gioi/quan-he-quoc-te/cuoc-chien-tranh-17-2-1979tham-bai-cua-nguoi-khong-lo-chan-dat-set-3302045/
[8]Colonel
G. D. Bakshi, VSM, The Sino-Vietnam War – 1979: Case Studies in Limited
Wars, Indian Defence Review, Volume 14 (2) July – September 2000. Ngô Bắc
dịch
[9]King
C. Chen, China’s War Against Vietnam: A Military Analysis, The Journal of
East Asian Affairs, Vol. 3, Issue 1, 1983, p. 233-263. Ngô Bắc dịch
[10] Theo
Hoàng Trọng Lập, số điểm cao và cụm điểm cao trên biên giới Việt-Trung mà Trung
Quốc chiếm giữ trước năm 1991 là 48. Ví dụ, các điểm cao 1422, 1397, 1291 ở
Thanh Thuỷ, Vị Xuyên, Hà Giang. 2002 ở Vị Xuyên, 1251 Yên Minh Hà Giang, điểm
cao 583 (Pò Pùn – Léo Cao), điểm cao 371 (Hữu Nghị Quan), Bình độ 400, núi Phạ
Khả mốc 26 Đông, điểm cao 636 mốc 52 Đông ở Lạng Sơn v.v…Hoàng Trọng Lập, Xây
dựng cơ sở khoa học phục vụ cho việc xác lập đường biên giới và tang cường quản
lý Nhà nước tuyến biên giới Việt-Trung, ĐTNN 2001
[11] Gerald
Segal, Defending China, New York, Oxford University Press 1985, p. 213-217
[12]Harlan
W. Jencks, China’s “Punitive” War on Vietnam,: A Military Assessment, Asian
Survey [U. C. Berkeley], Vol. XIX, No. 8, August 1979, các trang 801-815.
[13]James
Mulvenon, The Limits of Coercive Diplomacy: The 1979 Sino-Vietnamese Border
War, Journal of Northeast Asian Studies; Fall 95, Vol. 14 Issue 3, p.
68-88.Ngô Bắc dịch
[14]Tui
Fei-Yueh Chan-cheng chih Yen-chiu (Một Nghiên Cứu về Chiến Tranh Trung –
Việt) Taipei, 1979, p. 2-5; Mei-chou T’ung-hsin, 23 March, 27 July, 1979,
p. 9-10 and 14-16.
[15]Xiaoming
Zhang, “China’s 1979 War with Vietnam: A Reassessment”, p. 867
Annie
Gilks, The Breakdown of the Sino-Vietnamese Alliance 1970-1979, Berkeley
CA: Institute of East Asian Studies University of California, 1992, p. 233
[16] Lưu
Á Châu, bài nói chuyện tại Quân khu Côn Minh. Bài đã đăng lần đầu tại
trang Đông Tác Giao lưu (http://dongtac.hncity.org/)
dưới tiêu đề “Vì sao Trung Quốc đánh Việt Nam?”.Nghiên cứu quốc tế, ngày
18/2/2016 đăng lại với tiêu đề “Chiến tranh 1979 dưới con mắt một viên tướng
Trung Quốc”
Nhận xét
Đăng nhận xét