VÌ SAO THƠ MẤT MÙA
VÌ SAO THƠ MẤT MÙA
Cho đến những thập niên đầu của
thế kỷ XXI, có nhiều ý kiến cho rằng, dường như một thế kỷ “vàng son” của thi
ca Việt Nam đã đi qua, và rằng thời đại của thi ca đã dần tắt trước sự “xâm
lăng” của các loại hình văn hoá mới, trước thời đại văn minh hội nhập toàn cầu
của công nghệ thông tin và các phương tiện nghe - nhìn. Có lý lắm, khi cộng đồng
văn hóa Việt hôm nay không mấy người chú ý đến thơ đương đại và sự phát triển lặng
lẽ của nó trong dòng chảy chung của văn học Việt Nam trong hai thập kỷ gần đây.
Phải chăng tình yêu thơ ca không
còn đất sống trong tâm hồn con người hiện đại, khi “cơn lốc” của đời sống công
nghiệp, đời sống đô thị và cái gọi là lối “sống gấp” đang nghiền thời - gian -
sống của chúng ta thành từng mảnh vụn? Đã có lúc tôi tự hỏi: “Thơ cần cho ai -
cần cho mọi người hay chỉ cần cho riêng ta?”.
Nếu nói thơ cần cho mọi người
thì đấy là một điều không thực tế, vì số đông hôm nay không đọc thơ (cũng không
phải vì không đọc thơ mà đời sống tinh thần của họ nghèo nàn). Trong cộng đồng
văn hóa Việt hôm nay chỉ có một thiểu số còn đọc thơ (đa phần là học sinh, sinh
viên và người làm thơ đọc thơ của nhau). Vậy thơ sống thế nào trong thời đại “kỹ
thuật số”, trong thời “điện tử hoá” đang rút dần đất sống của thơ?
Có thể nói, sự xuất hiện của các
cây bút trong những năm gần đây đã làm cho diễn đàn thơ trẻ có thêm một luồng
sinh khí mới. Bước đầu, những tác giả trẻ này với bút pháp tìm tòi đang thể hiện
một khuynh hướng mới trong thi ca. Nhưng liệu khuynh hướng tìm tòi này có thể
trở thành một trào lưu, một phong cách mới ghi được dấu ấn riêng trong sự phát
triển của thơ Việt Nam đương đại hay không thì vấn đề ấy vẫn đang là một câu hỏi
chưa có lời giải. Tôi có cảm giác, một số tác giả thơ trẻ hiện nay đang coi trọng,
đang đề cao việc tìm kiếm “cái lạ” và tìm cách biểu đạt “cái người khác chưa
dám nói tới hoặc né tránh” trong thi ca nhiều hơn là việc tìm tòi, xây dựng một
hệ thống thi pháp mới có khám phá về mặt nghệ thuật để làm giàu có cho ngôn ngữ
thơ Việt.
Có ý kiến cho rằng, phải chăng với
họ, thơ “cần phải lạ” chứ không “cần phải hay”? Có một thực tế, nhiều bài thơ
tìm tòi của một số cây bút trẻ hiện nay không nhận được sự hưởng ứng đồng thuận
của nhiều người trong giới văn chương chứ chưa nói tới độc giả thơ. Nhưng không
vì thế mà chúng ta không ghi nhận những dấu hiệu “biến đổi” mới mẻ này ở nhiều
tác giả trẻ, nó cho thấy nền văn học đương đại của chúng ta đang có những chuyển
động, đang khai mở cho một giai đoạn mới của thi ca.
Các tác giả trẻ này thường trình
bày khá sinh động, khá đa dạng cái tôi-hiện-đại của mình trong một cuộc chơi nhằm
đổi mới ngôn ngữ thơ, nó mang hơi thở buồn vui của đời sống đô thị hôm nay. Một
số cây bút trẻ không chú ý tới việc xây dựng tứ thơ, vì thế các bài thơ của họ
mang một cấu - trúc - lỏng, nó mới chỉ dừng lại ở một mức biểu đạt thông thường
của ngôn ngữ nhằm chuyển tải một nỗi niềm, một tâm sự, một ghi nhận, một khắc họa
đời sống…
Và khi ấy, bài thơ chỉ là một tập
hợp của những mảnh vụn đời sống được mô tả, được sắp đặt bằng những con chữ mà
đáng lẽ ra nó phải được nhà thơ kiến tạo và xác lập bằng một ý tưởng mới, một cấu
trúc mới mang lại cho bài thơ một đời sống một tư duy cao hơn cái đời sống tầm
thường đang diễn ra mỗi ngày.
Một cái - tôi - đặc - trưng của
thơ trẻ hiện nay là cái tôi gai góc, cái tôi cực đoan, cái tôi xa lạ, cái tôi
khác người luôn được thể hiện, được hướng tới, được nhìn nhận, được khẳng định ở
nhiều khía cạnh khác nhau trong nhiều bài thơ của họ.
Có một thực tế thơ ca mà chúng
ta nhận thấy trong những thập niên cuối của thế kỷ XX vừa qua, người đọc đã quá
quen tai với những vần điệu du dương mòn mỏi. Sự lạm phát đến “quá tải”, đến
bão hoà của thơ tình (xin nhấn mạnh là loại thơ tình không hay) đã gây cảm giác
nhàm chán, làm người đọc thất vọng và làm công chúng quay lưng lại với thơ. Giờ
thì tất cả mọi người đều có thể bỏ tiền túi để công bố những tâm sự “nỉ non lai
láng” của mình, hoặc những “triết lý vặt” theo kiểu “đánh đố” bằng thơ.
Có lẽ thơ hay không cần phải giải
thích, lĩnh hội nhiều, cứ đọc lên là ta thấm ngay được cái phần tâm linh của
câu chữ. Thú thật, là một người làm thơ, nhưng tôi rất ngại đọc những bài thơ
tình nhạt nhẽo, đọc thấy nhang nhác giống nhau về nỗi niềm, tình ý với những
hình ảnh xưa cũ hoặc làm duyên câu chữ với các loại thơ tình vật vã, thơ tình
trái ngang, thơ tình cô liêu, thơ tình u uất, thơ tình phá phách đề cao dục vọng
thân xác… đua nhau lạm phát các kiểu “tình tang muôn thuở”.
Thứ thơ dễ dãi “đong đưa” này dường
như không có sức sống cùng thời gian. Hành trình khắc nghiệt của thơ ca sẽ loại
bỏ những thứ thơ đó. Thời gian là thước đo sòng phẳng nhất đối với mọi giá trị
sáng tạo. Trong thơ Việt thời gian qua, không ít những bài thơ vui rất giả, rồi
buồn cũng rất giả. Ngôn ngữ thơ ấy như một thứ hàng “giả” làm người đọc khó chịu.
Phải chăng độc giả của thơ ngày một ít đi cũng bởi lẽ ấy (?).
Thời gian trước đây tôi cho rằng,
thơ hay (giống như một tấm gương phản chiếu) là loại thơ soi vào thấy mình, thấy
cuộc sống con người hiện lên sinh động với các chiều kích khác nhau ở trong đó,
còn thơ dở thì có soi vào mãi cũng không thấy gì. Còn thời gian gần đây tôi lại
nhận ra rằng, thơ hay là thứ thơ làm cho người ta phải kinh ngạc và thật sự
rung động bởi một ý tưởng mới, một suy tưởng mới, một sức sống mới đang làm nên
những dạng thức mới của ngôn ngữ thơ.
Và một trong những tiêu chí của
thơ hay là phải làm người đọc ngạc nhiên về tư duy thẩm mỹ mới và hiện đại, để
thơ vượt thoát khỏi những khuôn sáo ước lệ của vần điệu và thắp lên những hình
tượng thơ mới. Trong mỗi bài thơ hay, không gian thơ được mở rộng hơn, mở sâu
hơn, với tới các chiều kích của những suy tưởng lớn mang tính khái quát cao.
Và, trong trường - thẩm - mỹ
này, những vấn đề tưởng chừng lớn lao lại được khái quát lên từ những cái rất tầm
thường, nhỏ bé của đời sống quê hương máu thịt hằng ngày.
Theo tôi, trong quá trình cách
tân thi ca, điều quan trọng là tác giả phải biết cách giữ được đặc thù của ngôn
- ngữ -thơ trong chuyển động đổi mới của những con chữ. Đây chính là sự khác biệt
giữa một số cây bút cách tân đã nhân danh cái mới để “lạ hoá” thơ đến mức phản
- thơ với những tác giả có xu hướng tìm tòi nhằm nâng cao vẻ đẹp của ngôn- ngữ-
thơ bằng những ý tưởng mới.
Theo tôi, bản chất của sự cách
tân và đổi mới thơ nhiều khi không chỉ nằm ở sự tìm tòi về mặt hình thức nghệ
thuật cấu trúc của ngôn ngữ thơ mà điều thiết yếu căn cốt là ở sự đổi mới nội
dung đời sống được phản ánh trong thơ. Trong rất nhiều thế kỷ qua, các trường
phái thơ lớn trên thế giới qua mỗi thời kỳ đều hướng tới sự tìm tòi và cách
tân.
Điều khác biệt (và khu biệt nhất)
để có thể nhận ra được các nhà thơ cách tân của mỗi thời đại có gương- mặt- thơ
khác nhau như thế nào chính là ở nội dung đời sống trong thơ họ ở thời đại ấy
đã được phản ánh, khắc hoạ trong một trường - thẩm - mỹ nào.
Trong thơ trẻ gần đây, đời sống
đường phố và nhịp điệu sống đô thị hiện lên khá ngột ngạt và căng thẳng với những
nỗi lo âu của con người thời hiện đại. Thơ văn xuôi của họ ít chất thơ nhưng nó
chứa đựng những ẩn ức và quẫn bách của một tâm trạng đang tìm lối thoát và sự
chia sẻ, khi con người đang trở nên mông muội và ký thác tâm trí mình vào những
điều hoang tưởng.
Và trong số những nhà cách tân đầy
nhiệt huyết này, ở một số cây bút, nhiều khi phẩm chất tài năng, phẩm chất thi
sĩ không theo kịp phẩm chất đổi mới, nên có thể những bài thơ “non lép” của họ
mới chỉ dừng lại ở mức có dấu hiệu của sự tìm tòi mà chưa làm nên sự khác biệt
của một phong cách thơ mới được khẳng định bởi một tài năng thơ đích thực. Bởi
một trong những thể hiện rõ nét nhất của phẩm chất thi sĩ chính là cách tìm tòi
về mặt ngôn ngữ và cách xử lý câu chữ theo một phong cách riêng để tạo nên một
tứ thơ mới cho mỗi bài thơ, và cái mới trong thơ nhiều khi không cần đến sự
trình diễn cầu kỳ bằng một hình tượng lạ, một cấu trúc lạ, một biểu đạt lạ mà
điều nó hướng tới phải là một phát hiện mới về tính suy tưởng của thơ.
NGUYỄN VIỆT CHIẾN
Nguồn: Văn Nghệ Công An
Nhận xét
Đăng nhận xét